Wednesday, June 29, 2011

Tinh yêu nhẹ hơn tinh đồng đội QueenBee/LLÐB

(Ðây là diển tiến trận mạc trên đường mòn Hồ Chi Minh đễ chêm vào phụ hoạ cho vui trong tuổi xế chiều còn luyến tiếc chuyện bay bổng với lối bay “Kạ-Càng bánh xe trên ngọn cây”)

    Nếu giãi đoán không ảnh hình trên đây (trang 276, Vol-1 “The New Legion) là hình chụp từ trên cao do phi cơ trinh sát U-2 hay Woodo F-101E chụp thì cho rằng: Một đại đội quân Bắc Việt với đầy đủ trang bị súng đạn, đang băng qua con Sông cạn Xepon. Nhưng với hình chụp trên trực thăng H.34, đang bay Kạ càng bánh xe trên ngọn cây thì rỏ ràng đây là toán Dân-công khuân vác những tạc đạn đại bác phòng không, từ tuyến đường cuối cùng của đoàn xe Molotova cho đến các đỉnh cao đặt súng. Họ đang ngụy trang bằng những nhánh lá cây, kể cả cây gậy để mò mẩm qua sông cũng ngụy trang để nguyên cành lá; Cảnh một chiếc trực thăng H.34 bất chợt lướt qua, phi công do phản xạ tăng tốc lực cho mau qua khỏi vùng nguy hiểm, còn người buộc dây nịt an-toàn đang tòn-ten nơi cánh cửa trực thăng như Th/sỉ Duncan và Chuẩn úy Huỳnh Thuận Nhả LLÐB (sau qua Không Quân lên Trung Tá và chết khi lệnh bõ Pleiku) thì tha hồ mà bóp chụp hình lia-lịa không dứt. Còn người Cơ-phi ở không Chuẩn úy Nguyễn Văn Mai thì làm gì trong cảnh tao-ngộ nầy! Một cái quơ-nguắt tay chào đón “vô thức” qua hành động lịch sự phản xạ tự nhiên của người chiến sỉ Không quân hào hoa dù nơi chiến trận. Nếu Họ có súng sẳn trên tay, Họ có kịp bắn lên không? Tôi xin trả lời chắc chắn với đọc giả: “Là không kịp rồí!”
    Thời tiết vùng núi sáng nào cũng như ngày nào, khí lạnh toát ra từ đá núi, cây rừng còn đọng lại hơi sương, thỉnh thoảng vài cơn gió biển thổi vào đem hơi ấm cần thiết cho dân miền Sơn cước. Vài cụm mây ngàn bỏ núi bay xa, nơi đây lá rừng lung-lay xào xạt, trên bầu trời xanh thẳm điểm vài sợi mây vảy cá Cirrus nằm bất động, báo hiệu một ngày dài với trời nắng đẹp. Thượng đế như chìu lòng cảm thông cho sự lo âu của phi hành đoàn Biệt-kích Delta sẽ dấn sâu vào vùng lửa đạn với những phi vụ âm thầm không danh xưng trong bóng tối
Trên bãi cỏ, hai chiếc trực thăng CH-34 lù lù nằm im lìm trên đó, ướt đẩm hơi sương như hai con kình-ngư vừa trườn lên bờ phơi nắng.
Cơ-phi Mai đang hì hục, hấp tấp dang tay đẩy liên tục cần bôm xăng từ các thùng phuy chuyền qua trực thăng. Mồ hôi Mai nhuể nhoải ướt đẩm chiếc áo Bà ba đen, nhưng không phải là bác nông dân cày bừa mà là người hùng cày sâu nơi vùng lửa đạn. Mai dang tay lau bớt mồ hôi tuôn trên trán và dụi nhẹ vào đôi mắt đang cay. Tôi đang bước nhanh đến Mai:
“Anh Mai! Anh nghỉ tay một chút cho khỏe, để Tôi bôm cho… khi nào khỏe hẳn anh giúp Tôi kiểm soát mứt độ dầu, xăng, nhớt thủy điều và các cơ phận xoay chuyễn o.kay!
“Mình chỉ bôm chiếc của mình mà thôi, để Huệ và Khôi bay ra Quảng Trị đổ xăng cho đở khỏi phải dùng xăng ở đây; Một công hai việc vừa để dành xăng ở đây mà cũng vừa an toàn hơn phải lấy trong thùng phuy lâu ngày đọng nước trong đó”
   “Chút nữa anh bôm nhớ chừa cặn lóng ở dưới đáy thùng, và kiểm soát lại coi xăng đã hết hạn chưa… vi xăng để lâu trong thùng phuy sẽ bay mất nhiệt lượng octane, sẽ nguy hiểm khi mình dùng sức máy tối đa… Chút nửa đây lên trực thăng, anh nhớ nhắc Thượng-sỉ Donald-Duncan xiết dây nịt an toàn cho chắc, vì trước khi mình vào chụp hình ở Bộ chỉ huy Tiền phương Ðoàn 559, Tôi phải thử trước một động tác “8-chậm,” phi công Mỹ gọi là “Lazy-8,” có nghĩa là bay quẹo chử I thay vì chử U, nói cách khác đó là phương thức bay ngược 180 độ nhưng ở đây dùng khoãng cách Ðứng chớ không thể dùng khoảng cách Ngang. Làm như vậy không đụng vào vách núi dựng đứng nơi đó và tránh bay qua vùng mà hai Tiểu đoàn phòng không Bắc Việt luôn luôn sẳn sàng nhả đạn… Anh nhớ Tôi sẽ đâm đầu xuống tăng tốc lực tối đa, xong sẽ cất mũi trực thăng chỗng ngược thẳng đứng lên trời, đợi khi nào tốc lực xuống đến 25 hải-lý sẽ đạp phối-hợp nhẹ nhàng chân phải cho trực thăng từ từ hạ mũi xuống, rồi uyển chuyển phối hợp động tác tay lái đem phi cơ lên thăng bằng; như vậy là mình đang trở lại 180 độ trên trục mà mình đả bay qua…biết đâu Lính BV thấy cảnh ngoạn mục nầy nên người anh em thù địch sẽ vổ tay mà quên bắn mình .. Anh tin như vậy không!?
Mai hiểu được ý nghĩa bông đùa của Tôi khi phải giáp mặt với sự hiểm nguy, hắn nhanh nhẹn trả lời cho tôi yên tâm: “Anh lo việc lớn đi, còn việc nhỏ để tôi lo…tôi đã kiễm rất kỷ rồi anh yên chí, ống hút của cần bôm xăng không đụng đáy thùng mà cách gần tới hai tất an toàn lận”
“Anh Mai! Những chuyến bay có anh bên cạnh tôi rất yên tâm, vì chuyến bay nầy rất muôn phần nguy hiểm Tôi cảm thấy phải cho anh biết để chuẩn bị ứng xử”
  
      Tinh yêu nhẹ hơn tinh đồng đội QueenBee/LLÐB
      Trong Không quân ngành trực thăng, chúng tôi xem nhau như anh em ruột thịt, người nào cũng là quan trọng cần thiết như nhau không thể thiếu được; Sự thật chúng tôi là những chiến sỉ anh hùng không tên tuổi. Các phi vụ thường được giữ tuyệt đối bí mật, âm thầm chiến đấu trong bóng tối hay trong giông bảo để tạo sự bất ngờ, vào những đêm trời không trăng sao, thời tiết càng xấu càng tốt, địa hình càng khắc nghiệt càng tăng thêm yếu tố bất ngờ, rồi càng tăng thêm sự kín đáo khi thả Toán nơi chốn rừng già hoang-dã. Những phi vụ cảm-tử như vậy mà ngay người chiến hửu Không quân cùng binh chủng cũng không ai biết được, ngoài Sở Liên lạc, Nha Kỷ thuật và Bộ Tư lệnh lực lượng Ðặc Biệt. Nghe đến danh từ Queen-Bee, Delta-Alpha-1, 2, các phi công sừng sỏ xuất sắc nhứt cũa Không lực Hoa Kỳ và U.S Army Aviation cũng phải chào thua bái phục. Ðâu cần phải thâm niên quân vụ, đâu cần phải mang trên ngực cánh “hoa tiêu lảnh đạo” có vòng nguyệt quế và tinh cầu dẩn độ; Những phi công mới ra trường đã đi vào huyền thoại lịch sử chiến tranh Việt Nam ngang hàng với các bậc đàn anh của họ. Trong hỏa tuyến xung vào vùng trời lửa đạn, làm gì có sự phân biệt cấp bực giữa chiến sỉ với nhau, chỉ có lòng can đảm, sự hy sinh cho chiến hửu mới là những trang “chiến-sử” để đời của người Lính trận. Ðó mới chính là gia tài trang trọng và cao quý nhứt mà người chiến sĩ quân lực VNCH ít khi phải đem rao hàng giữa chợ đời
Thông thường những chuyến bay nguy hiểm Tôi thường bay một mình, không có cơ-phi. Tôi rất tiết kiệm, tránh né tối đa sự thương vong vô ích có thể xảy ra cho đồng đội; Nhưng đặc biệt hôm nay tôi phải chấp nhận loại đạn AK hơn loại súng phòng không hoặc hoả tiển cầm-tay SA-7. Vì Tôi biết phải giởn mặt với hai Tiểu đoàn phòng không của CSBV bảo vệ Bộ chỉ huy Tiền phương Ðoàn 559; vùng mật khu vô cùng huyền bí, phía SOG Mỹ cho là vùng kiên cố “Oscar-8.” Tôi sẽ bay theo kiểu Cá lia-thia lách mình tránh né dưới rặng đá bén nhọn của san-hô, chôm-chổm dựng đứng. Bổng dưng tôi nhớ lại những lời Ni ân-cần dặn dò. “Khi đi bay Anh nhớ đừng bao giờ quên đeo chiếc Từng ảnh Thánh-giá nầy… Chúa Mẹ sẽ bao che cho Anh suốt chuyến bay được an-lành, nhớ hĩ... nhớ hĩ! Nàng muốn tôi luôn luôn bám giữ niềm tin như vậy, nhưng Tôi lại cứ bình thường; “Thôi thì cứ nghe theo nàng, không có lợi thì thôi chớ cũng chẳng có gì gọi là hại cã!”
Tôi sẽ bay cùng với Hảo, anh bay rất vững nhưng ít chịu liều mạng, không giống như Khôi và Huệ, hai hiện tượng nầy thôi khỏi nói, “Ðúng anh hùng tữ chí hùng nào tử” do đó Tôi cắt đặt hai anh túc trực cấp cứu khi Tôi chẳng nay bị nạn. “Ðúng ngựa hay thường sanh chứng!” Riêng Huệ, anh đã làm cho Tôi và Thiếu tá Thơm thuộc LLÐB phải bị Thiếu-tướng Cao Văn Viên, Tư lệnh Quân khu-3 kêu lên chửi cho một trận nên thân: Tôi còn nhớ rỏ ngày ấy vào một buổi chiều tối, khi tôi đi kiếm vài món gì nhét vào bao tử cho xong. Trên đường trở về Khách sạn mà CIA mướn trọn hết cho Phi đội chúng tôi để bảo mật, thì được ông chũ khách sản chạy ra phân bua: Có ông Thiếu-úy của Ðại-úy, tướng đi nghiêng nghiêng, gương mặt đỏ ngầu, tôi biết ngay là Huệ, xách súng và rủ các ông khác bao vây Ðồn quân cảnh ở ngả tư đàng kia. Tôi hối hả hỏi ông “Ông biết tại sao, lý do gì vậy” Tại vì các ông ăn mặc và súng ống cũa Việt Cộng, nên Cảnh sát đả phối hợp với Quân cảnh ụp vào khách sạn xét hỏi, khi ông Thiếu úy đi về thấy vậy, ông nổi điên chửi thề “Ð.M quân cảnh Mỹ mà thấy tụi nầy chở trên xe Jeep Delta cã chục người kể cả đàn bà con nít mà tụi nó không dám đụng đến mà quân cảnh Việt Nam là cái thá gì mà dám phiền nhiểu tụi nầy?” Nói xong ông Thiếu úy tập họp tất cả lại điều động bao vây Ðồn quân cảnh bảo Trung úy Ðồn trưởng phải đích thân đi ra xin lổi vì dám vào khách sạn của ông hạch hỏi lôi thôi; Tôi có linh tính ngày mai thế nào cũng bị Tư lệnh Vùng chửi bới. Y như rằng, Tôi và Thiếu-tá Thơm bị Thiếu tướng Viên kêu lên chữi cho một trận vuốt mặt không kịp: “Các anh đừng ỷ các anh là đơn vị cảm tử, ưu tú nhứt của quân lực VNCH rồi muốn làm gì thì làm à, càng giỏi mà đừng kêu binh thì người dân mới kính phục quân đội… Trung úy trưởng đồn thông-cãm sự hy sinh của các anh, chớ người khác họ lấy xe tăng cán đè lên các anh nát đầu dẹp lép, các anh hiễu chưa? Ăn mặc đồ Việt Cộng mà dám vây đồn quân cảnh, các anh liều thật… súng AK-50 của các anh thì làm được gì với xe tăng?”
Tôi về lại khách sạn gặp Huệ, tôi cũng chẳng nói tiếng nào, có phải con người mà hằng đêm bay phi vụ đùa giởn với tử thần đã đem lại một tinh thần bất ổn, căng thẳng vì giao động mạnh? Thế nhưng Huệ sửa lại tư thế càng kính trọng và nể phục tôi hơn, Tôi có thể hiểu được qua nét mặt cũa Huệ
   Còn Khôi, con người cứ lầm lầm lì lì khó hiểu. Thì giờ anh bỏ ra nhiều nhứt là mài dao trên một miếng đá mài tí hon. Thật là một hiện tượng kỳ quái; đêm đó tôi còn nhớ, Vũng Tàu một thành phố kết hợp nhiều binh chủng nhứt, Nhảy Dù, Thủy Quân Lục Chiến, Người Nhái, Biệt kích Lôi hổ, Biệt Ðộng quân….Tôi đang ngồi trên chiếc ghế đẩu cao của một quán Kiosque ở Bải trước, thì nghe tiếng súng nổ khắp nơi, mọi người đều nằm rạp xuống đất để tránh đạn, nhìn qua nhìn lại chỉ có một mình tôi thản nhiên ngồi uống rượu. Vì tôi biết chắc chắn họ chỉ bắn lên trời thôi chớ chẳng có gì phải sợ, sau một hồi nổ súng, các binh chủng khác đều rút lui chỉ còn lại lác đác vài anh Biệt kích gan lì ở lại lâm le khẩu súng. Tôi nhìn ra thấy Trung-sỉ Ðức, hắn vừa được tôi bóc ra trong chiến khu D tuần trước; Tôi trừng mắt quát lớn (không biết sao hồi đó tôi dữ quá)
“Ðức…Ð.M đi về ngay” Hắn riu-ríu đi về nhưng vẩn chu-miệng lên trời la lớn: “Ð.M không có ông thầy tao kêu về…thì chết mẹ tụi bây hết” Một lát sau, không khí bãi trước vẩn vui lại như không có chuyện gì xẩy ra trước đó.
Một người đàn bà trạt tuổi 40 mươi, mặt mày phấn son tươm tất đi ra chào hỏi như muốn làm thân: “Em thấy Ðại úy anh hùng quá chẳng sợ súng đạn là gì…cứ ngồi uống tỉnh-bơ”
“Có gì đâu mà sợ… họ bắn dọa lên trời thôi chớ có gì đâu mà sợ”
“Em đề nghị Ðại úy chuyện nầy nghe”
“Ðâu chị nói thử
“Tụi em ước ao Ðại úy đở đầu cho quán của tụi em, chúng em sẽ biết điều với Ðại-úy…có như vậy quán tụi em sẽ không bị phá-phách… nghe Ðại-úy”
Tôi cảm thấy khó chịu và tội nghiệp cho người dân trong thời buổi chiến tranh:
“Thôi đi bà nội… Tụi tôi ở đây có vài tuần xong chiến trận Bình-Giả chúng tôi sẽ đi chổ khác…Chị coi bao nhiêu tiền tôi trả, Tôi phải về khuya rồi”
“Không có bao nhiêu thôi để em xin mời Ðại úy”
Tôi bèn đặt tấm giấy bạc lên bàn, cẩn thận giằn ly rượu lên trên rồi ra về một mạch
Vừa nằm xuống chưa kịp chộp mắt, đã có ai gỏ cửa rầm rầm nơi phòng mình, vừa mở cửa đã thấy Trung-úy Ðổ Cao Luận, Ðại đội trưởng Biệt-kích Dù, mặt đỏ kè có lẻ uống quá nhiều rượu.
Tôi nghe tiếng nói không chửng chạc qua hơi rượu:
“Anh Vinh! Tôi muốn đấu súng với anh!”
“Luận…ê… bộ hôm nay Bồ có chuyện buồn”
Hắn gật gù trả lời: “Không có gì buồn mà chỉ có rửa hận thôi! Anh có đàn em mà không biết dạy-dỗ… mũi dại thì lái phải chịu đòn… có thế thôi”
Tôi điên tiết lên nhưng phải vuốt cơn giận xuống “Chuyện đâu còn có đó… không lẻ trong chiến trận mình đã hy sinh cho nhau mà bây giờ vì một người đàn bà mà mình phải hy sinh sanh mạng thật nhục quá…Tôi vẩn biết giữa anh và tôi, ai cũng xem cái chết nhẹ tựa lông hồng, nhưng mình phải dành cái chết nơi xứng đáng.”
“Thôi anh về ngũ đi…sáng mai tôi sẽ khuyên Khôi vụ nầy… anh yên chí tôi biết tánh nó”
Luận bước lùi xiễng niểng, nặng nề lảo đảo ra xe để lại mùi hơi rượu nồng nặc
Tôi không thể nào chộp mắt lại: “Tại sao có việc nầy… lổi bởi do ai?”
T.Lan là vợ Bé của một cựu Tổng Bộ trưởng quyền thế, đã có liên hệ tình ái với Luận, chàng Trung- úy rất đẹp trai phải nói nhứt nhì trong quân đội, còn Khôi…so ra còn xấu hơn mình, tình yêu gì mà khó hiểu quá? Mà cũng thiệt kỳ quái, chiều nầy đi vào phi trường để bay thám sát LZ, xe Jeep thiếu gì, nhưng kẹt nổi ai cũng muốn leo lên chiếc xe Cortina Trắng mui trần của T.Lan để vào phi trường; gót giày nhà binh nện lên làm trầy trụa cả lớp sơn trắng.
Chính tôi đã hỏi nàng “Sao cô không để các anh tự lái xe đi… như vầy thì nát xe hết”
T.Lan nhoẻn miệng cười: “Em dự định trầy sơn em sẽ sơn màu đỏ cho nó ngầu và hợp thời trang hơn!”
Thôi mình rán dổ giấc ngủ, ngày mai tính sau nhưng lại nghĩ mong lung tới Trung-sĩ Ðức, vừa rồi nếu mình không cứu hắn từ trong lòng địch từ Chiến khu D ra thì sức mấy đang hăn-tiết vịt mà nó chịu nghe lời mình trở về Trại. Nghĩ cho kỷ Toán hắn hên và thật may, mới thả chiều hôm qua thì sáng hôm nay lại được bóc về liền. Hắn kể chuyện mà bắt tức cười:
“Chiến thuật ngụy-âm” Chúng tôi thả Toán của Tùng và Nhựt bằng phương cách tạo nhiểu loạn âm thanh; Trên thế đất bằng phẳng rừng cây cao dầy đặt bạt ngàn như Chiến khu D, hoặc rừng cao-su bát ngát như Bình Giả; Tâm lý ở vùng rừng núi người ta thường chuẩn bị cho một đêm dài trước khi trời sắp xụp tối. Trưa ngày hôm đó, hai Toán-trưởng, hai Phi-công trưởng và hai sĩ quan Việt Mỹ đặc trách hành quân, Thiếu tá Tất và Thiếu tá da màu Thompson. Chúng tôi được một chiếc phi cơ của quân đội Úc “Otter” chở đi thám sát bải đáp, Tôi đề nghi phi công của chiếc Otter bay cao ngang qua vùng hành quân lấy trục thẳng từ Ðông sang Tây và khi trở về đáp lại Vũng Tàu, tránh tuyệt đối không bay trở lại trên vùng đó, làm như vậy để khỏi bị sự chú ý của địch.
Chỉ còn vài phút nữa là bay ngang vùng phải chọn bãi đáp cho tối nay. Bốn nhân vật quan trọng nhứt trong phi vụ thám sát nầy là hai cặp, Nhựt và Khôi, Tùng và Tôi. Chỉ duy có vài phút trôi qua nhanh chóng, mổi cặp tự bàn thảo với nhau trong việc chọn bải đáp, nhưng phần nhiều phi công quyết định; Toán trưởng chỉ có việc ghi chấm bãi đáp theo ý định của phi công. Chúng tôi thường chọn một bải Chính và một bãi Phụ; Trên bản đồ có khoanh vùng thám sát cho từng Toán trách nhiệm. Thời gian bay ngang qua bải đáp quá nhanh, bốn đứa chúng tôi, ai mặt mày cũng đỏ kè vì phải vận dụng trí óc quá nhiều căng thẳng thần kinh; Tôi nhìn qua Khôi và Nhựt thì họ cũng vừa trỏ ngón tay Cái lên báo hiệu okay.
Thế là từ giờ phút nầy trở đi bãi đáp như một nhân tình không thể xóa mờ trong tâm trí chúng tôi; Thiếu tá Thompson có hỏi tôi hai toạ độ bãi đáp nhưng tôi do-dự, làm sao tin ai được, Tôi có trách nhiệm phải bảo vệ tuyệt đối bí mật cho Toán, cho nên Tôi thối thoát: “Tối nay Tôi sẽ cho Thiếu-tá biết ngay lúc về đáp vì có thể giờ chót đáp vào bãi phụ thứ hai”
    Ánh nắng ban chiều còn bảng lảng dưới trời Tây như muốn nhắn nhủ loài người thôi dừng lại sự chém giết lẩn nhau vì tất cả rồi đây sẽ chôn vùi vào bóng tối âm ti. Ba chiếc trực thăng tuần tự nổ máy giữa gốc phi trường nhưng không át nổi tiếng động-cơ gầm thét khi lên xuống; Tôi cất cánh trước rồi Huệ và Khôi sau cùng; Huệ bay chiếc thứ hai không có chở Toán mà chỉ để cấp cứu khi có chiếc nào bị nạn và cũng để đánh lạc hướng đối phương. Phi cơ đang bay đội hình nấc thang, chút nửa đây giữa đám cây cao dầy dặt; Lính Bắc Việt chỉ nghe một đoàn trực thăng bay ngang qua như mọi ngày, không biết từ phương hướng nào tới, âm thanh nhiểu loạn, lẩn lộn lớn dần rồi vụt một cái ào lướt qua, âm thanh tiếp tục nhỏ dần đấn đến khi không còn âm vang. Làm sao Lính Bắc Việt biết được chỉ có vài giây, một chiếc vừa thả Toán cách đó không xa!
“Hai, Ba sẳn sàng… mình xuống thấp 100 bộ, hảy giữ cao độ nầy, mổi chiếc cách nhau 7 giây okay?”
Tôi xuống thấp… bải đáp trước mặt, làm động tác đứng khựng nhịp nhàng tay-lái…không được rồi, chúng gài chông cao năm thước để chống trực thăng đầy lố-nhố trên trãng tranh của bãi đáp, Tôi cất cánh lại tiến về bãi đáp dự phòng, vừa lúc nầy thì chiếc thứ Ba của Khôi vừa lướt qua; Tôi bám theo sau hắn giữ khoảng cách 7 giây. Bây giờ tới phiên Khôi thã tôi giữ khoảng cách sau hắn; Khôi đang giảm sức máy, đầu phi cơ ngốc lên, chuẩn bị đáp; Tôi giữ nguyên tốc độ vượt qua trên đầu hắn, chưa được 7 giây thì Khôi đang nối đuôi sau lưng tôi. Giờ tới phiên Tôi thả, bãi đáp trước mặt hơi nhỏ khó khăn hơn; Tôi nhẹ nhàng giảm tốc lực máy, đáp xuống… một, hai rồi năm giây Toán phóng xuống quá nhanh; Tôi cất cánh nối đuôi theo chiếc trước của Huệ, bay thẳng một mạch không đỗi hướng về lại căn cứ. Cuộc thâm nhập thật hoàn hảo!
Ðúng 10 giờ sáng hôm sau, Toán của Trung úy Tùng cho biết đã bắt được một tù binh xin được bóc về gấp, gần chổ bãi đáp hôm qua bị gài nhiều chong chống trực thăng. Lời nhắn của Toán trưởng, nên bay từ hướng Bắc xuống, từ nơi có nhiều cây cao dầy đặt nhưng rất an toàn, không nên lấy hướng từ Xóm sình, Bầu-Cạn, Bầu Phụng trở lên sẽ bay qua đầu một trung đòan trừ cũa Bắc Việt chốt ở đó, Toán chỉ trãi báo hiệu bằng tấm vải nhựa màu vàng cam khi nghe tiếng trực thăng, tuyệt đối không đốt khói màu. Trung sỉ Ðức là người lập công đầu; Hắn mừng rở vừa nhảy xuống phi cơ, bu lô bu loa trong niềm tự hào, hắn kể cho phi hành đoàn nghe: “Tôi nghe ở đàng xa có tiếng chân người bước vội, tôi núp ngay xuống bụi rậm dầy nhứt ở bên cạnh lối mòn. Tim tôi đập thình thịch, súng luồm luồm ở vị thế sẳn sàng nhả đạn, tuy tôi được lịnh tránh tối đa không được nhã đạn. Tiếng lá xào xạt mỗi lúc một gần, tôi nghĩ thằng Việt Cộng nầy chắc chắn nó không biết có tụi tôi ở nơi đây, nên nó vừa đi vừa thản nhiên hút gió. Khi nó vừa qua mặt tôi thì nó đi vào một bụi cỏ gần đó; Tôi ngó qua thấy nó không cách tôi xa lắm và đang cởi quần; Tôi nghĩ nó đi Ể. Tôi liền tiến tới ngay sau lưng nó la hét to lên, cốt cũng để báo động cho Toán biết luôn. “Dơ tay lên…Ð.M dơ tay lên” Tôi thấy nó chẳng chút gì sợ hải mà thản nhiên trả lời: “Ð Một …đây, Ð một đây!”
Tôi tức giận thét lớn: “Ð.M… Ð Một cũng phải dơ tay lên” lúc nầy Hắn mới sợ hải quay lại nhìn tôi một lát rồi mới chịu dơ tay lên mà không kịp kéo quần, Ð.M thúi quá! Tôi xong tới trói tréo tay hắn lại bằng chiếc còng dả chiến Nilông thì cũng vừa lúc Trung úy Tùng chạy đến, chúng tôi kéo hắn chạy trối chết ra bãi đáp… Tôi không hiểu ám số Ð-Một là cái con mẹ gì?

    Nằm trong phòng ngủ hạng sang có máy đều hòa mà Tôi không tài nào ngủ được, Tôi nhảy xuống giường chơi thêm một chai beer nữa họa may dỗ được giấc ngủ rồi ngày mai còn phải gặp Khôi để giải quyết chuyện tình cảm lăng-nhăng giữa đồng đội cùng sống chết có nhau. Thật tình yêu phức tạp khó hiểu quá! Ðẹp trai không chịu mà chịu xấu trai mới nên nông nổi, Ngày mai Tôi sẽ phải giải quyết sao đây!
Mặt trời đả lên cao nhưng Tôi vẩn còn ngủ vùi như khúc gỗ, bổng có tiếng gỏ cửa dồn dập; Tôi nhảy ra khỏi giường như chiếc lò xo ra mở cửa; Khôi xuất hiện vui vẽ mời tôi đi ăn sáng.
“Tôi định gặp anh thí anh đả đến” Khôi dồn dả hỏi tôi “Có chuyện gì quan trọng không đại-ca”
“Ối, cũng chẳng có gì là quan trọng, anh đồng ý tính mạng của anh em mình mới quan trọng”
Khôi cướp lời “Khỏi nói đúng là như vậy”
Chúng tôi lái xe Jeep ra Bải sau ăn sáng, trên đường đi tôi không nhắc nhở gì chuyện tối qua Trung úy Ðổ Cao Luận đòi đấu súng với tôi.
“Bửa nay hai anh em mình đi thi tài bắn súng, ai thua thì trả ăn sáng?”
Khôi dẩy nẩy, “Tôi hứa bao anh ăn sáng rồi mà… vả lại tôi làm sao bắn giỏi bằng đại-ca?”
Chúng tôi vào một cái quán xa nhứt và cũng vắng vẽ nhứt; Sau khi ăn uống no nê, tôi từ từ nói:
“À Khôi nè, đừng nói Tôi hay tò mò … Anh làm quen với cô T.Lan được bao lâu”
“Cũng không lâu lắm… mới được vài ngày đây thôi”
“Anh đừng nghỉ tôi tò mò, chỗ anh em mình sống chết có nhau…vì thế cuộc sống của chúng mình có những mấu chốt dính dấp chặc chẻ như ruột thịt…anh đồng ý điều đó”
“Chắc chắn dỉ nhiên là vậy”
“Anh có biết T.Lan là người yêu của Luận, Ðại đội trưởng Biệt Kích Dù”
“Biết chớ, nhưng T.Lan đâu phải vợ của thằng Luận”
“Ðành rằng như vậy nhưng giữa T.Lan và Luận anh quý người nào hơn”
“Tôi quý cả hai, Luận là chiến hửu cùng sống chết có nhau nhưng T.Lan là người yêu, dầu mới quen nhau nhưng tôi không thể bỏ nàng được”
“Một bên là tình bạn cố hửu lâu đời và một bên là tình yêu mới chớm nở, chả lẻ chuyện nầy anh không thể giải quyết được sao”
“Anh Vinh à, mặc-dù anh lớn tuổi và là cấp chỉ huy của tôi, nhưng anh làm sao hiểu được khi yêu con tim nó có lý lẻ riêng của nó!”
“Khôi à…tôi rất hiểu điều đó, nhưng đây mình bỏ qua cấp bực mà chỉ lấy tình chiến hửu cao quý để đối xử với nhau, Tôi thấy nó trọn tình vỉnh cửu, dù sao mình cũng tự hào là người trai anh hùng của thế hệ; Tôi nghĩ Khôi con người tài ba mà chẳng lẻ chỉ có một T.Lan trong cuộc đời mình, ngoài xả hội thiếu chi người đã đẹp mà nết na chung thủy… hay là anh chịu khuất phục không đủ bản lảnh hay tài ba để tìm một người đẹp hơn T.Lan?
“Ðúng, Anh là cấp chỉ huy tài ba không những trong nghề nghiệp mà còn thầy đời về tâm lý, anh đã khơi đúng lòng tự trọng của thằng Khôi nầy… Bây giờ trở đi tôi xin hứa với anh, mối liên hệ giữa T.Lan và tôi sẽ chấm dứt từ đây”
Ðể cho không khí bớt căng thẳng tôi cà-rởn nói đùa như có lời khích bác, “Nếu mình o- mèo dở ẹt không kiếm nổi cô nào khác thì tội gì mà nhả ra… phải không”
Anh Vinh à! Đây là lần cuối, thôi đừng nhắc nhở chuyện đó nửa, anh nói đúng: “Mình không thể bỏ anh em, bạn bè chiến hửu cùng sống chết có nhau!
Bây giờ nghĩ đến hai hiện tượng Khôi và Huệ túc trực cấp cứu, Tôi vô cùng yên tâm, vừa suy tư đến đây thì cũng vừa lúc Khôi và Huệ đến tôi; Huệ có cầm trên tay cho tôi một ca-nhôm càfê đen.
Hắn nói: “Trong thời gian nghiên cứu bản đồ, anh uống chút cho tỉnh!”
Tôi, Hảo, Huệ và Khôi, bốn đứa ngồi cho hỏ trên bải cỏ. Tôi chậm chạp thuyết trình: “Dự trù Tôi sẽ cất cánh lúc 10 giờ, hai anh cất cánh sau tôi một chút bay thẳng về Ðà Nẳng, nhớ giữ tần số UHF… VHF… F.M… thỉnh thoảng các anh gọi tôi hoặc ngược lại, Hảo sẽ gọi các anh” Xuống Ðà-Nẳng các anh đổ xăng vẩn luôn luôn giữ ba tần số nầy có gì khẫn cấp thì gọi Okay..? Khi cất cánh lại nhớ bay về hướng Quảng Ngãi, khi bay xuống gần đến Benhét tôi sẽ trở về Quảng Ngải đổ xăng và gặp các anh ở đó. Chúng ta sẽ gặp người đẹp Quảng Ngải, Cô Mầu bán kẹo Gương, nhìn nàng rửa con mắt cho thỏa chí rồi lên nhà hàng Thế giới Tửu gia dùng cơm.
À còn quên một chuyện rất quan trọng, ngay sau khi cất cánh, các anh đừng vội bay một lèo về Ðà Nẳng mà bay vòng vòng ở Sông Mỹ Chánh, vì Tôi sẽ không bay chụp ảnh từ biên giới Lào Việt dọc xuống miền Nam, trọng điểm từ đỉnh núi đá vôi Coroc xuống lần theo Sông Xe-pon mà bay thẳng một mạch đến sào-huyệt Tiền phương Ðoàn 559 trước, vì rằng Tôi không muốn chúng sẳn sàng chào đón, nếu mình ló dạng nơi nào khác trước đó thì chúng sẽ báo động ngay. Mình sẽ bị lảnh đủ vì nơi đó là vùng tử địa, núi non chôm chổm, vách đá đứng sựng, nơi hai Tiểu đoàn pháo phòng không bảo vệ chặc chẽ, phi cơ khu trục chiến thuật rớt quanh đó rất nhiều, mới vừa rồi một gunship AC-130E bị bắn rớt phi hành đoàn coi như tan xác, vi theo ROE cho nay co Sam- enveloped… Các anh có gì để hỏi…? Okay chúng ta chuẩn bị cất cánh”
LLDB Huỳnh Thuận Nhả xuất hiện trong bộ đồ ngụy trang da-beo lốm đốm và Thượng Sỉ Donald Duncan trong bộ đồ rằng-ri TQLC, trên bộ đồ ngụy trang nầy chằng chịt nhiều thứ máy chụp hình, phim ảnh, dây súng đạn đủ thứ. Người Mỹ ỷ vào sự lớn xác nên họ mang rất nhiều thứ lỉnh kỉnh trên mình, như ống nhòm, gun flare, bản đồ thậm chí còn có kiến mát nữa
Tất cả đều được điều động ngồi gọn lên phần trước của Trực thăng, Cơ-phi Mai đang tháo hai khúc gổ chèn bánh xe quăng vội một bên, rồi nhảy phóc lên sàn tàu, dơ ngón tay Cái ám hiệu sẳn sàng nhưng không quên nhe hàm răng ngó lên cười để cũng cố sự can đảm. Mọi người đều hiểu được đây là chuyến bay định mệnh, đúng nghĩa vào sanh ra tử!
Tôi vừa làm thử một thao tác “Lazy-8” rất ngoạn mục nhưng không biết tới đó, vach núi chập chùng chận cao trước mặt mình có làm được đẹp như vậy không, hay là quá căng thẳng thần kinh cùng sự mệt mỏi, rồi không làm được thì chết mẹ cả lủ năm mạng người. Sào-huyệt Ðoàn 559 (Oscar-Eight) cách Khe Sanh 25 dậm về phía Ðông-Nam, nơi đây tôi phải bay sạt trên ngọn cây không phải vì sợ Radar theo dỏi mà sợ chúng biết tụi tôi mon men tới, chúng sẽ vui vẻ chuẩn bị chào mừng bằng những tiếng pháo phòng không đủ loại. Tôi cứ bám hướng 155 độ, bay sạt trên ngọn cây, dợn sóng lên xuống theo địa hình lồi lỏm của thế đất. Xa xa là tiền đồn Satram của ngày xa xưa nay bỏ ngỏ như một đồn ma hoang vắng, đã bị bỏ hoang từ thời Ðệ-I Cộng Hòa; Trước mặt là dảy núi Tam Bôi, ánh nắng ban mai chói chang đang tỏa xuống cạnh sườn Ðông của thung lủng với vách núi đá sừng sửng dựng đứng, lác đác đó đây trên điểm cao, những ổ phòng không lúc nào cũng sẳn sàng nhã đạn. Dưới đó có một con suối lớn ngoằn ngèo chảy ngược nhưng lại xuôi về Ðông Nam, tiếp nối thung lủng ALuôi, Ashau như tấm thảm xanh bằng phẳng trải dài bát ngát với cỏ rạ sình lầy.
Còn vài phút nửa là chúng tôi sẽ đâm đầu vào ổ kiến lửa; Nó ở giữa lưng chừng của hai tiền đồn đả bỏ hoang từ lâu là Litôn và Tourout, cảm giác ngoại cãnh khác lạ trong tôi, bỗng dưng toát lên hai thái cực đối nghịch với nhau. Hồi còn là phi công quan sát, ở vị trí từ trên cao nhìn xuống, tôi thường chép miệng khen thầm “quê hương mình quả thật quá đẹp, núi non hùng vỉ bạt ngàn. Nhưng giờ đây ngoại cảnh trước mắt quá hải hùng, buộc chặc trong tằm mắt phải nhìn thật gần, thật sát, thật rỏ được những gì đang đe dọa cho đất nước miền Nam . Dưới đây, hoạt cảnh đổi thay nhộn nhịp đến kinh hoàng trên dọc tuyến đường Mòn Hồ Chí Minh, chi chít đường xá mới mọc, lối mòn tua tủa song song chạy về hướng Nam, biết bao là cầu mới dựng tạm bắt ngang. Những doanh trại, nhà kho nằm ẫn dật dưới lùm cây dọc theo con Suối, có nơi lá ngụy trang đã rụng rời phơi bày mái nốc lợp bằng “Tre-đan đập-dập” lộ thiên như thách thức, rẩy nương tạp nhạp lẩn lộn với đủ loại hoa màu, Sắn, Ngô, Khoai, Cải bẹ … để ngụy trang đánh lạc hướng sự chú ý của các phi cơ trinh sát không ảnh U-2 và RF-101 nhưng làm sao lừa được những cặp mắt cú-vọ của Nhả và Duncan qua nhửng thước phim để đời.
Ai dám bảo đảm cho Cộng Sản Hà Nội thôn tính Miền Nam ! Tôi nghĩ không phải Liên Xô mà cũng không phải Trung Quốc mà là người bạn quý của chúng ta! Nếu phải nêu đích danh là W.A.Harriman, thủ lảnh đảng hội Skull and Bones thì quả là không sai – Một trò chơi chiến tranh chớ không phải là cuộc chiến tranh thực sự; Nếu Hoa kỳ muốn làm tiêu tan ý đồ của Cộng Sản Bắc Việt, cứ mỗi tuần lể chỉ một lần thôi, thả vào nơi đường Xa lộ Harriman: Vì đã nhiều lần CSBV tuyên bố trước thế giới không có quân lính của họ ở nơi đó, có nghĩa là chỉ có Khỉ và Vượn mà thôi. Ðể phòng thủ tự vệ, Không-quân miền Nam chỉ thả một trái Bom CBU-55, và cứ một tuần một lần rồi dùng AC-130B bay dọc theo hành lang xa lộ dùng đại bác không giật 106ly loại đạn tầm nhiệt mà chơi. Không bao lâu chẳng còn chiếc xe máy nổ nào ở trên tuyến hành lang và chỉ còn lại một loại xe “cải tiến” (noi theo danh tu CS, cho la Xe-thung) nhưng lại không có người hay trâu bò để kéo. Dĩ nhiên là tiêu tan ý đồ cưởng chiếm Miền Nam bằng vỏ lực.
Phía Cộng Sản thường nói: Mỹ là tay sen đầm quốc tế, còn các nước khác cho Mỹ là cảnh sát thế giới. Riêng Tôi thì cho rằng, Mỹ là Chủ cái chia bài rất điệu nghệ, phát hiện tay Con nào thua quá nhưng muốn cầm chưn để chơi tiếp. Chủ Cái Mỹ bèn có hai cách: Một, lấy tiền của tay Con kia cho tay nầy ăn để chơi tiếp – Hai, Chủ Cái chơi đẹp cho tất cả tay Con đều “hẩu-sực” rồi từ từ lùa hốt sau. Trong cuộc chiến tranh Việt Nam , Hoa Kỳ vừa viện trợ cho Pháp (nhưng thực tâm Mỹ muốn nhờ Pháp tiêu thụ nhửng thứ vất đi nầy và chịu lệ thuộc cho quyền lợi của Mỹ)
Năm 1949, Bộ trưởng ngoại giao Mỹ, Acheson [một thành viên Skull and Bones] thuyết phục TT Truman giúp viện trợ cho Pháp sơ khởi 15 triệu Mỹ kim, 4 năm sau lại đề nghị 2 tĩ đôla, nhưng đồng thời trước đó vấn đề Tình báo OSS, do Ðiệp viên 019 Lucien Conein nhảy dù xuống mật khu Pác-pó giúp Cụ Hồ cã ngàn khẫu súng Carabin và Trung liên Bar, cho Hạ Sỉ quan OSS huấn luyện Trung đội Vỏ trang tuyên truyền của Vỏ Nguyên Giáp và Văn Tiến Dủng làm Trung đội phó. Hồi Ðệ-II Cộng Hòa, CSBV chơi trội, pháo kích ác liệt vào phi trường Biên Hòa chẳng hạn như năm 1967 phá hủy một số lớn phi cơ (Mỹ muốn CSBV tiêu hũy dùm hàng tiêu dùng) Ðể căng bằng lực lượng của hai tay Con, Hoa-Kỳ dùng B-52 tiêu diệt lực lượng CSBV gây ra sự thiệt hại đáng kể để dung hòa. Khi dùng chiến dịch khai quang đến hồi cao điểm, Quân CSBV đói, thì CIA tìm cách xúi bẩy Tiểu Khu trưởng chở vài chục GMC gạo vào cứu đói, còn Vùng Duyên hải, thì Hải-Ðoàn 759 thả gạo trôi từ ngoài biển vào bờ. Còn MTGPMN rên rỉ quá thì CIA buộc VNCH thả ngay các tay gộc cán bộ MTGPMN để họ được ra Bắc nghỉ ngơi R&R.
Vào những ngày cuối cùng của tháng Sáu, 1972, Quân Dù của VNCH chưa được lệnh mà đòi xung phong chiếm Cổ Thành Ðinh Công Tráng làm ngược thế thương lượng theo kế hoặch hòa đàm, thì bị nướng một Ðại đội Dù tại bức tường thành gọi là thả bom “lầm” – làm gì nhau? chiến tranh mà (theo kế hoặch là TQLC chiếm từ phía Ðông quốc lộ-I, ngoài biển tiến lên de My phoi-hop yem tro) phải đúng thời điểm mặc cả tại Hòa đàm Paris mới được phép, còn CSBV muốn Tổng nổi dậy chiếm Miền Nam 1972, nhưng chưa đúng thời điểm nên phải bị hy sinh 100.000 quân, khiến Tướng Giáp phải từ nhiệm. Nhưng quyền hạn do lảnh đạo Mỹ chỉ định là Sư-đoàn TQLC tái chiếm Cổ thành. Báo hại trong buổi hợp tại Camp Evan khi TQLC được chỉ định chiếm Cổ thành, thì bị ngay sự phản ứng của Trung tướng Dư Quốc Ðống phẩn nộ ngay buổi hợp. Tôi xin phát biểu nguyên văn “Ð.M thằng nào ở Dù ra mà phản bội lại Dù thì đéo khá được” Có lẽ Tướng Ðống nghĩ rằng đây là phóng đồ hành quân do Tướng Trưởng quyết định. [Chúng ta cũng đừng nên nghĩ rằng cuộc hành quân Lam Sơn 719 là tiếng Việt nhưng Mỷ đã đặt tên qua sự cố vấn của CIA trước một tháng, 18/1/1971, do Richard Helms va Donald Rumsfeld] làm mất đi tình huynh đệ chi binh giữa các Tướng lảnh với nhau.
   Tôi phải mở to mắt ra để nhìn về phía trước, bằng mọi giá phải khóa chặt tầm nhìn của súng phòng không BV. Thông thường chúng điều chỉnh tầm tác xạ ở góc bắn bao quát lên trời chớ không bắn tầm ngang hoặc chỉa xuống dòng Suối của thung lủng; Ðây cũng là cách bay nhũi vào lửa đạn mà tôi đang nghĩ tới cách thoát thân. Tôi quyết định bay thẳng gốc với con đường mòn trước mặt giao tiếp với một con Suối lớn bắt nguồn từ giòng Sông Xê-Pon chảy ngược lên mạn Tây Bắc của Tỉnh lỵ Tchepone.
Bất chợt, như phản xạ, Tôi tự động chúi mũi tăng tốc độ tối đa để vượt qua tầm mắt của Toán người đang cố lội qua Suối; Họ đang cồng lưng vác vật gì nặng lắm! có lẽ đạn phòng không? Mình mẩy ngụy trang đầy cành lá! Tại sao Họ không bắn chúng tôi mà lại vẩy tay chào mừng như đồng chí?
Tôi nghe trong nón bay, ở dưới buồng lái Mai nói nhắn lên: “Anh nghe thấy gì không?”
Tay chân đều kẹt đang lái, Tôi vừa ngậm micro vừa nói ú ớ “Thấy lính BV vẩy tay chào anh”
“ Duncan và Nhả đang bận bấm liên tục chiếc máy hình, Tôi đâu có việc gì làm… mà không biết tại sao Tôi tự động vẩy tay, cho nên họ mới vẩy tay lại”
“Tôi hỏi gặn lại, “Tại sao họ không bắn mình”
Mai cười hô hố trả lời “Có lẽ Toán dân công khuân vác, Họ đâu có mang súng, anh nào cũng ì-ạch xiểng niểng chống gậy qua Suối, dường như Họ mang cái khỉ gì trên lưng nặng lắm, qua Suối không vững… nếu như U-2 hoặc RF-101 mà chụp không ảnh… thì Họ cứ cho là một đại-đội hay trung-đội nào đó với đầy đủ súng ống đang băng qua Sông, chớ đâu có biết đây là Toán dân công khuân vác, có người chặt cả cành cây còn lá để ngụy trang, làm gậy chống chỏi qua Suối. Những cái vẩy tay qua lại vô tâm hay lịch sự vô thức? Hay phản ứng tự nhiên? Không phải “tao-ngộ chiến”… trong giây lác ngở ngàng không dự đoán phải làm sao
Chúng tôi sắp lướt nhanh qua con đường đất đỏ trước mặt, lần nầy chắc Mai vẩy tay có ý thức, chớ ở không làm gì, vẩy tay ra cái điều là dân lịch sự hào hoa cũng nên lắm! Quả thật ở ngay trên đường đất đỏ nầy có một chiếc xe ‘hũ-lô’ làm đường, kiểu có ống khói hồi lý-toét xa xưa, vài chục người bu quanh, hai tay cầm cái Rế cái Xọt, dường như đang hất đất đá xuống những lổ trủng làm đường. Làm sao biết được đàn ông hay đàn bà dưới những vành nón lá nhỏ hơn kiểu Miền Nam một chút. Chúng tôi đang nghĩ rằng họ sẽ ngước mặt lên khi nghe tiếng động cơ bay ngang; người ngước lên nhìn trước nhứt là ngay vào lúc Tôi đang bay ngang đầu họ, còn lại phần đông chưa kịp phản ứng; Những chiếc hình nầy của Duncan và Nhả sẽ tái xác định vào lúc nào thì tất cả đều biết chúng tôi bay ngang.
Ðã đến nơi tử địa rồi, Tôi đang căng thẳng thần kinh, hồi hộp mím môi ghìm tay lái. Bay lách qua, lách lại như con cá lia-thia ẩn hiện trong hóc đá san hô, cạnh sườn bên trái con Suối lớn, để tầm quan sát chụp ảnh được rỏ ràng hơn, bên phải tôi, trên cao vách đá, đã phát hiện ra ít sự hoạt động của người qua lại trên lối mòn, cỏ vẹt ra nằm rạt hai bên. Nhưng cảnh vật vẩn yên tịnh, có lẽ là Họ không ngờ rằng giờ nầy có chúng tôi đến thăm mà không hẹn trước; Trên vách đá cao hơn đã thấy có dấu vết phơi áo quần bộ đội, Tôi cảm thấy vững tâm vì các ổ phòng không đang chốt ở các cao điểm, hơn cao độ chúng tôi đang bay dọc theo dưới con Suối. Và dỉ nhiên tầm tác xạ của chúng không làm gì được để gây thiệt hại cho chúng tôi
Thình lình, Tôi nghe khoảng cách sau đuôi hai tiếng nổ ầm ầm, Tôi nhũi mũi tăng tốc độ bay sát vào vách đá, nương vào các chướng ngại vật thiêng liêng để lẫn tránh. Rồi cũng phía sau đuôi tiềng AK nổ dòn tan như bắp rang. Tôi chẳng sợ sệt gì cả vì tầm đạn còn quá xa không thể nào đến đây được; Dường như chúng đã báo động, tôi đã nhìn thấy rỏ những vệt khói trắng từ bên kia Suối. Có lẽ B-40 hay 41 gì đó bắn qua nhưng đạn đạo không tới, nên rơi nổ giữa dưới lòng Suối; Thời gian bay qua Ðoàn 559 Tiền phương sao lâu quá mà khúc ẹo con Suối lại quá gắt, đôi khi lượn trái đôi khi lượn phải mà vách núi đá thì đứng sừng sựng như muốn chụp xuống trực thăng.
Bây giờ ở phía sau đuôi thì hình như không còn đe-dọa nữa, nhưng ác nghiệt thay những mảnh đạn súng cối tối tân nhứt thời đó của Liên Xô là Cối 120ly lại bóc lên trước mặt, có những cột khói nổ tung rải rát không biết đâu mà tránh. Chúng bắn từ những cao điểm ở trên chóp núi dọc theo dưới con Suối, nên luôn luôn chúng tôi phải lướt trên những cụm khói của hỏa pháo, mùi khói thuốc khét nghẹt đến muốn ngạt thở. Trong phản ứng, Tôi dùng hết sức máy để qua khỏi vùng tử địa càng nhanh càng tốt, trực thăng thoáng nhanh có lúc muốn chui vào vách đá bên trái con Suối. Bay như thế nầy có thể tránh khỏi những mảnh đạn của súng cối không, nhưng vô cùng nguy hiểm vì phải đòi hỏi tay nghề khá điêu luyện. Tôi đang thấy rỏ hai vệt khói trắng đục bên phải, từ vách núi phía trên cánh quạt chính phụt xuống, Tôi lại cứ ngở rằng loại B-40 hay 41 gì đó; Nhưng khi chúng bay ngang tôi sức gió thật mãnh liệt và theo sau một vệt khói dài nơi sau đuôi. “Thôi chết rồi SA-7, 5, 3 gì đây” Trong nón bay Tôi vẩn nghe được tiếng gió rít, cảm nhận tốc lực và âm thanh thật hải hùng, rồi hai tiếng nổ kinh hoàng …ầm ầm trên thành đá bên trái của chúng tôi chừng 20 thước. Trực thăng bị ảnh hưởng luồng gió cực mạnh rùng mình đôi chút
Con người thường khi gặp nguy hiểm hay quá thất vọng thường nghĩ đến Thượng đế. Lúc nầy tự nhiên Tôi nhớ đến lời Ni dặn, “Chúa Mẹ Maria ơi cứu con!” Tôi Amen loạn xạ! Có lẽ hai trái hoả tiển SA-7 cầm tay nầy hay đạn pháo 85 ly, 75 ly gì đó. Nếu đạn 85 hay 75 ly thì làm gì có vệt khói mạnh thẳng bon ở sau trái đạn, mà đạn đạo làm gì đi xa thẳng đường như hỏa tiển; Nếu như ống thoát khói của H-34 ở bên phải thì mình đã bị nó hút vô rồi; vả lại khi bắn hoả tiển sẽ không có hiệu quả chính xác, trừ phi trái hoả tiển có đũ tốc lực và cao độ thì nó mới được chính xác nhũi vào mục tiêu. Cho nên chúng tôi đã thoát chết do hai đều may mắn kể trên: cao độ thấp và ống thoát khói ở ngoài tầm nhiệt phi đạo của hoả tiển.
Thôi qua khỏi rồi, đừng quan tâm gì nữa để trí nảo lo chuyện khác, trước mặt lại lập lại cảnh củ, những cột khói súng cối lại cường độ nhiều hơn trước, nhưng thời gian và tâm trí đâu mà đoán ước lượng cở bao nhiêu cự ly; Thôi đành cứ bay sạt ngang cạnh vách đá chớ biết làm sao hiểu được ở đâu mà tránh. Ðạn tránh người chớ người làm sao tránh đạn! Chúng tôi đang thấy một số rất đông người ở dưới Suối, dường như họ đang thản nhiên tắm giặc; Ô coi kìa! Họ đang tũa chạy lên bờ, một lát sau chúng tôi nghe tiếng AK như chưa bao giờ được nghe nhiều như vậy, nhưng chúng tôi cứ tỉnh-bơ vì quá xa sau ấy; Nhưng nếu mà đừng hồi hợp thì nghe tiếng AK dòn như pháo Tết, pháo nổ trước mũi Lân đang múa giao thừa. Nơi đây cảnh vật bắt đầu yên tỉnh, núi đá cao dần, tôi bớt sức máy giữ trong chế độ bay bình thường.
Tôi giựt mình thấy chân ngọn núi Tam Bôi dựng đứng như cánh cửa sắt khổng lồ chấn ngang chực ụp xuống chúng tôi – rán gò tay lái, Tôi bình tỉnh ấn nhanh mũi phi cơ lấy tốc lực, nhanh lần, nhanh hơn đến vận tốc tối đa… đũ tốc độ, kéo mũi phi cơ thẳng đứng, xung quanh toàn vách núi… thân thể mọi người dính chặc vào ghế lái, thân tàu, mặt dài thộn ra…mũi phi cơ ngóc lên thẳng gốc, cao cao dần, một màu xanh bầu trời trước mặt, không còn thấy đất mà chỉ có trời và không-gian …tốc độ giảm dần còn 25 hải lý; đạp nhẹ đều chân phải, mũi phi cơ lắt nhẹ, rồi từ từ đâm đầu xuống Suối… tốc độ nhanh dần đến bình phi. Chúng tôi đang vòng lại 180 độ trong chìu thẳng đứng chử I. Tôi nghe trong nón bay tiếng Mai phàn nàn “Anh ra khỏi vòng nguy hiểm một chút để chúng tôi nghỉ mệt, rồi vào lại sau!” Tôi hiểu được sức chịu đựng có hạn, nghĩ chỉ còn cách dựa vào đám rừng nguyên thũy dầy dật cây cao trước mặt bay qua đó cho anh em nghĩ mệt một chút
“Okay mọi người nằm đại xuống sàn tàu nghĩ 5 phút rồi tiếp tục!”
Lúc nầy Tôi mới có thời gian để hỏi Hảo: “Anh có liên lạc gì với Huệ chưa?”
“Tụi nó ở không, rảnh quá cho nên cứ gọi hoài làm sốt cả ruột”
“Thì anh cũng rảnh, nên trả lời cho Huệ yên tâm… liên lạc tốt chớ”
“UHF và VHF thì rất tốt, duy có FM thì không nghe rỏ”
Nhìn tận mắt thung lủng với vách đá sừng sửng hiểm trở như vậy, quả thật đây là thánh địa khá vững chắc của Bộ chỉ huy tiền phương Ðoàn 559 mà phía Bắc Việt cho là Trung tâm đầu nảo lảnh đạo cuộc chiến miền Nam. Còn phía SOG thì đặt tên cho nó là “Oscar-Eight” – CIA với mục tiêu chiến lược họ gọi rằng: “Mọi nơi miền Nam đều bị đụng trận nhưng chưa hoàn tất và chỉ để gây tiếng vang mà thôi” (Everything worked, but nothing worked enough) Vì thế nên mặc dù Miguez bị mổ ruột và thiêu sống, dù đây là một hành động vô cùng tàn ác trước sự chứng kiến của Toán SOG nhưng lệnh CIA buộc họ phải nhảy vào “Oscar-Eight”
Giữa tháng Sáu năm 1967, lực lượng Hatcher Force được lệnh phải thâm nhập vào Trung Tâm đầu nảo Ðoàn 559 nầy, nó nằm vào khoảng 40 cây số phía tây-bắc thung lũng Ashau/ALuoi mà vừa rồi chúng tôi đã bay qua đó. Nơi đây đường xá cũng như sự hoạt động điều binh rất nhộn nhịp nối liền giữa Ðường 92 từ Lào qua 922 cùng nối liền 548 qua phần đất Việt Nam; Nơi đây ghi nhận số phi cơ đủ loại bị bắn rơi ngoài H-34 Queen Bee của Việt Nam là không hề hấn gì. Với lối bay khóa chặc các họng súng cũng như hóa giải sức thu-hút của hỏa tiển cầm tay của BV. Phi hành đoàn chúng tôi không ngạc nhiên gì về công sự phòng thủ kiên cố, những hầm trú ẩn nằm sâu trong hóc núi đá như những cánh cửa sắt có thừa sức chịu đựng của B-52, hai Tiểu đoàn phòng không già kinh nghiệm đang bảo vệ vùng trời của Tướng một sao Võ Bam trấn giữ tại đây. Ðây mới thật là Trung tâm kiểm soát và điều động hành quân trên trục Xa lộ Harriman
CIA mật báo cho biết, nơi đây là kho tiếp liệu lớn nhứt ngoài phạm-vi miền Bắc. Dỉ nhiên cái kiểu làm ăn của CIA là phải vào hang Cọp mới bắt được Cọp. Trung sĩ John Meyer trước đây đã vào một lần, ông cho đây là “ổ kiến Lửa” (the area was really hot. I mean, every team that went in there got the shit shot out of it) Chỉ trước khi Toán thám sát SOG cho lệnh B-52 oanh tạc, máy dò tìm tình báo của họ phát hiện từ nơi đây phát đi hàng ngày 2300 công điện đi đến từ miền Bắc và song song với Lào. Do đó Tướng Westmoreland tin chắc có một Tướng lảnh tư lệnh nơi đây; Dù rằng rừng nào Cọp nấy, nhưng Tướng Westmoreland rất hăng hái gởi Toán thám sát vào nơi đó định chuẩn rồi đề nghị TT Johnson đưa quân đội Mỹ vào hành quân tiêu diệt. Hậu quả Westmoreland bị triệu hồi về trong im lặng
Nơi đây chúng tôi kiếm một chỗ tương đối đáp được an-toàn không thể có, chỉ duy nhứt là bải đáp ở trong lòng chảo sâu như cái chén, mà xung quanh đó chúng tôi cũng thừa hiểu chằng- chịt những ổ phòng không lộ-thiên trên các sưòn núi đá. Dưới chân núi là các hầm và hang động có thể chứa chấp từ cấp Tiểu đoàn đến Trung đoàn. Nhưng kết cuộc chúng tôi cũng lựa vào thời điểm mà những người ở vùng rừng núi thường chuẩn bị chổ ngũ cho một đêm dài trước đó. Mặt trời tuy ngả về Tây ánh sáng vẩn còn le lói, chúng tôi cách bãi đáp chừng năm mười phút. Bổng dưng ở núi rừng bóng đêm chụp xuống một cách mau lẹ, là lúc đó tầm viển kính thâu ngắn lại. Chúng tôi đã tìm được một hóc đá ở bên sườn xa về hướng Tây, tiếng động bị ngăn cản bằng một triền núi sau lưng chúng; Một cuộc ‘thâm-nhập’ coi như khá chu-toàn!
Sáng sớm hôm sau, thung lủng của cứ điểm chìm đắm dưới bức màn sương lờ mờ dưới con mắt của Toán SOG-Hatcher, B-52 sẽ thả đúng vào lúc 10 giờ sáng, gồm 9 chiếc, ba đợt, mổi đợt ba chiếc với danh hiệu là “Arc-Light” cách nhau 5 phút. Hai toán viên người Mỹ là Thượng sị Billy Waugh và Covey từ cao điểm qua ống dòm: Gần 1000 trái bom loại nhỏ “mắt-Rắn” 250, 500, và lớn nhứt là 750 cân anh trải thảm trên thung lũng Ðoàn 559 Tiền phương. Hai người Mỹ đồng báo cáo ghi nhận có khoảng 50 tiếng nổ-phụ; Waugh vô cùng ngạc nhiên, ngay sau khi ngưng tiếng Bom nổ, Nó thấy lính Bắc Việt chạy ra từ những hang động dưới hóc đá và từ hầm đào sâu trong núi. Chúng ùa ra như ổ kiến lửa bị động, xô đẩy, lăn các thùng phuy xăng còn nguyên vẹn ra thật xa chổ cháy
Thượng sĩ Waugh liền gọi máy cho Trung tá Harold Rose ở Trại LLÐB Khe Sanh: “Thật đồ chó đẻ, chúng ta thả Bom chẳng ăn-thua gì cả, dường như chúng chẳng thằng nào bị chết nhờ ở trong hầm đá hang động được che chở an toàn, Tôi thấy họ đang dập tắt các đám cháy và di chuyển xăng dầu ra chỗ an toàn!”
Vì là trò chơi chiến tranh của trục Ma Quỷ, 9 chiếc máy bay Arc-Light B-52 nầy là oanh tạc cơ chiến lược cất cánh tại đảo Guam, và các chiếc tàu Liên Xô ngụy trang là tàu đánh cá đả ước lượng giờ B-52 sẽ ở trên mục tiêu là 10.00 giờ sáng, thế nên Tướng Vỏ Bam mới ra lệnh cho lính của Ông núp vào hang động trước đó, chớ còn B-52 bay trên 30.000 bộ có nghe tiếng động gì đâu mà xuống hầm. Vì thế nên trục Ma Quỷ mới gọi là chiến dịch “tiếng sấm rền” nghe cho vui tai chẳng có tiêu diệt ai cả, đây là điều lệ trò chơi gọi là ROE (Rule Of Engagement) Ðổi lại, lấy thí dụ thành phố Ðà Nẳng chẳng hạn, vào một buổi chiều nào đó khi chiếc Tàu Bệnh-viện của Ðức Helgolan bắt đầu rời bến cảng Ðà Nẳng chạy ra khơi thì y như rằng Phi trường Ðà Nẳng bị pháo kích; Ở trong phi trường thì sáng hôm đó có máy phóng thanh cho quân đội Mỹ ở trong Main Compound biết trước vào giờ ăn sáng, thường thường họ cho biết giờ nào, bao nhiêu trái đạn sẽ rơi vào phi trường. Ðến khi trước giờ pháo kích 5 phút thì còi báo động nơi Main Compound hụ lên để nhắc nhở mấy thằng Cu Mỹ nào chẳng may ngủ sớm thì thức dậy mà chui xuống hầm, không thì toi mạng ngay. Mục đích trò chơi nầy là để tiêu hủy các phi cơ tại chổ vì chúng nhứt định sẽ không đem về Mỹ, nếu còn nhiều phi cơ trong việc chuyển tiếp qua Việt Nam Hoá chiến tranh phải tốn kém thêm, vì phải bổ xung quân số, tăng cường số đơn vị rất nhiều tốn kém. Cái đỉnh cao trí tuệ dự trù CSBV pháo tiêu hủy càng nhiều càng tốt để sự chuyển tiếp các đơn vị tân lập sẽ thu gọn khi Mỹ rút về nước. [Ðiều nầy làm tôi nhớ lại, khi VC pháo vào phi trường Ðà-Nẳng, Tôi phải di tản các trực thăng vào các bải đậu an toàn, xa các trực thăng đang bị cháy, thì người cố vấn, Thiếu tá Waitt bảo tôi không cần di tản, cháy chiếc nào, Không kỵ Mỹ sẽ giao cho chiếc khác ngay lập tức để đủ cấp số phi đoàn]
Những điều trên đây phải khen vợ Lính Không quân chúng tôi, không am tường chính trị cũng như quân sự, nhưng cứ mổi buổi sáng vào lúc 8 giờ, mấy bà nghe léo nhéo tiếng Mỹ gì đó ở Main Compound, thì các bà thản nhiên đợi đến 5 giờ chiều ra bến cảng Chợ Hàn, Ðà-Nẳng mà thấy chiến Tàu Bệnh viện biến dạng là các bà chạy một mạch về nhà kêu réo mấy ông chồng “Tối nay Việt Cộng pháo kích, Tôi ẩm mấy đứa nhỏ ra phố trốn…còn Ông muốn chết thì cứ ở lại đây mà đợi Pháo!” Quả thật đúng như vậy!
   Tôi bay trở vào lại gặp ngay con đường đất đỏ thẳng bon trên thế đất bằng phẳng, nhưng cây to dầy dặt của một khu rừng già nguyên thủy chưa có người khai phá. Bay ôm sát bên trái con đường để Nhả và Duncan được dể dàng xoay sở chụp những gì khả nghi hoặc khác lạ về hoạt động của địch. Con đường bắt đầu chui xuống thấp rồi mất dạng trong đám rừng quá dầy. Tôi không cách nào tìm ra nó, bay cao thêm một chút để tăng tầm quan sát, thêm mười phút nửa để mò tìm, nhưng hoàn toàn không thấy nó đâu mà chỉ thấy trùng trùng điệp điệp toàn rừng cây cao. Theo chiến thuật đột kích chụp ảnh chốp nhoáng không cho phép tôi trên nguyên tắc bay ngược lại tìm nó mà vẩn tiếp tục bay. Tôi lấy qua trái 30 độ bay trong vòng 3 phút, rồi lấy qua phải 60 độ bay trong vòng 3 phút, rồi trở lại 60 độ qua trái…cứ như thế mà bay cho đến khi nào gặp con đường thì bay theo nó, tiếp tục phi vụ, nhưng tuyệt đối không được bay lên cao vòng tròn tìm kiếm con đường. Những con mắt cú vọ lõ ra tìm kiếm, không bao lâu tất cả chúng tôi đã phát hiện được không những một con đường mà 3, 4 con đường, giống 4 con rắn đỏ đang bò trườn song song lượn mình trên đám cỏ. Tất cả chúng đều xuôi xuống về Ðông-nam, Tôi chúi mũi xuống sạt ngọn cây, mắt nhắm vào con đường lớn nhứt vì nó gần với chướng ngại vật thiêng liêng là đám rừng già. Lúc nầy Nhả và Duncan với con mắt kinh nghiệm nên không tránh khỏi thần kinh đang giao động. Họ cũng biết rằng không còn con đường nào khác, tòn teng chắc nịt trong sơi nịt an toàn mà bấm nút.
Ðang suy nghỉ mông lung thì nghe sau đuôi tiếng AK nổ dòn tan như ran bắp. Chúng tôi nghe cũng quen rồi nên ước lượng không đáng ngại vì quá xa, vả lại Họ giựt mình nên bắn hoảng đấy thôi làm sao trúng được; Con đường trước mặt sắp sửa băng qua con Suối lắp sắp nước. Nhìn kỹ con đường làm dấu bởi dây rừng song song hai bên nối qua tận bên kia bờ, để làm gì? Thỉnh thoảng mổi đoạn còn cột một cái gì như miếng vải đỏ để làm điểm chuẩn, rải rác đều nhau qua tận bên kia bờ, dường như để làm dấu cho tài xế khi lái xe qua Suối không bị xụp lổ. Ấy chết! bên kia có chòi tranh, có anh bộ đội vừa trong chòi bước xuống nấc thang. Còn một anh nửa thì đang lom khom dưới Suối; Họ không kịp ngó lên huống hồ gì mà kịp đi tìm súng để bắn. Chúng tôi lướt qua êm ái không nghe một phát súng chào mừng nào cả.
Trên Xa lộ Harriman, chúng tôi đã bay qua hơn 100 cây số từ Vỉ-tuyến 17 đến thung lũng Ashau, nơi đây SOG hành quân được thi hành một các bí mật để thám sát hoạt động mức độ thâm nhập của Hà nội. Thung lủng nằm dọc như một bức tường thành cách bở biển 60 cây số từ Phú Bài đổ dài lên gần Vĩ tuyến theo trục hướng Ðông-nam về Tây-bắc với chìều dài khoảng 40 cây số, song song biên giới Lào/Việt có thãm cỏ xanh bề ngang 3 cây số lau-sậy khắp nơi. Tuy rằng thung lủng bằng phẳng nhưng vô cùng nguy hiểm cho đủ loại phi cơ bay qua vùng nầy với bất cứ cao độ nào; Khi chúng tôi sẽ bay ngang đây, chúng tôi đều cảnh giác không biết bao nhiêu cặp mắt thù địch đang theo dỏi và quyết tâm bắn hạ. Dưới thềm cỏ của thung lủng nầy, hai phi trường Ma ALuối và AShau vừa phải bị hủy bỏ vì áp lực địch cũng như cùng số phận của Ba Căn Trại Ma trống vắng dật dờ dưới lớp mây Stratus phủ ngập lên đó vào những lúc tờ mờ sáng. Trong khi con đường lớn 548 được nối dài từ Lào bởi hương lộ 922. Bây giờ con đường lớn nầy được cải bổ với vận-tốc xe có thễ lên đến 50 cây số một giờ là con đường chạy nhanh duy nhứt trên Xa lộ Harriman với một tốc lực đáng được khích lệ như trên.
Trên những điểm mà chúng tôi vừa bay qua vùng núi Tam-Bôi phía Tây bắc Ashau là những hang động núi đá bao la và cũng là thành trì kiên-cố chống đở B-52 một cách hiệu quả, như Tôi vừa mới nêu trên qua Toán thám sát SOG của Thượng sỉ Billy Waugh báo cáo.
10 ngày sau khi cuộc hành quân Lam Sơn 719 bắt đầu, là ngày 18/2/1971, Sáu Toán thám sát SOG được thả xuống dọc theo đường 548, trên những cao điểm để quan sát đồng thời điều động phi cơ oanh kích yểm trợ cho trục tiến quân của quân lực VNCH qua cuộc hành quân Lam Sơn 719 rút lui trở lại đường tiến sát về phía biên giới Việt Nam. Như khóa chận các đoàn quân tăng cường và tiếp liệu từ Căn cứ 559 chuyển qua. Nhưng việc đó đã không xẩy ra, vì TT Thiệu không muốn quân lực VNCH vướng vào cái bẩy của trục Ma-Quỷ!
Thoạt tiên, Tướng Abrams muốn chuyển một Lữ đoàn của Sư đoàn 101 Nhảy Dù xuống nơi đây với 4 Tiểu đoàn tinh nhuệ cũa Lữ đoàn. Nhưng giờ chót Tướng Haig cho lệnh hủy bỏ thay vì đem vào 3000 chiến binh của Sư đoàn 101 thì thay vào đó bởi một số ít người gồm 6 Toán thám sát để giảm bớt sự thiệt hại. Phía phản tình báo Mỹ qua Phạm Xuân Ẩn đã cho Tướng Giáp biết trước, nên Tướng Võ Bam liền thành lập 11 đại đội đặc trách về chống Biệt kích thám sát thâm nhập với một Toán Chó săn chuyên nghiệp tại thung lũng nầy và các Tiểu đoàn xung kích biệt lập sẳn sàng cơ động đến nơi để tiêu diệt tức khắc Toán thám sát.
Nhưng thủng lũng Ashau vẩn được yên tịnh vì TT Thiệu dám ra lịnh cho Tướng Lãm thả một đơn vị nhỏ của Sư Ðoàn-1 xuống Tchepone, “đái một bãi rồi về”, ngay sau khi TT Thiệu phát hiện trên phóng đồ hành quân có tên bãi đáp với danh nhân minh tinh màn bạc như LOLO, (Lolobrigida) LIZ, (Liz Taylor) SOPHIA, (Sophialorren) HOPE, (Bob-Hope) cũng như trước đó vài tháng nữ tài tử Jane Fonda ăn nói bố láo với sinh viên Ðại học Michigan, như là một khổ nhục kế hay chiến tranh Siêu Tình Báo. Ðứng trên phương diện chiến lược của SCP, TT Thiệu cũng thừa hiểu Hoa Kỳ muốn bẽ gảy cái xương sống của Quân Lực VNCH qua tiêu diệt các Sư Ðoàn thiện chiến nhứt của VNCH như Sư Doàn Dù, TQLC, Sư Ðoàn-1 BB, Lử đoàn 1 thiết kỵ, Liên Ðoàn BÐQ…Các Tướng lảnh Mỹ như Westmoreland rất đau buồn vì SCP muốn cho quân lực VNCH không còn những sỉ quan ưu tú trung cấp để thay thế cho cuộc chiến.
Ðây cũng nằm trong ý đồ của trục Ma Quỷ biến vùng núi phía Tây dưới quyền kiểm soát của CSBV để năm sau 1972 chuyển qua mà SCP gọi là Easter Offensive, tấn công từ vùng núi (tây) ra vùng đông dân cư, (đông) Tam trùng Phạm Xuân Ẩn, điệp-viên CSBV được nhiều huy chương do sự báo cáo chính xác, nhưng lần nầy quá hấp tấp suy diển cho cuộc cưởng chiếm Miền Nam 1972 qua cuộc Tổng công kích, nổi dậy quá sớm, kết quả CSBV phải hy sinh 100.000 quân cho chiến dịch Hậu-vệ (Linebacker) Làm sao điệp viên Ẩn hiểu nổi thế chiến lược 20 thù địch (1975-1995) Eurasian trong Á-châu chiến lược. Cưởng chiếm miền Nam 1972 thì quá sớm mà làm sao Ẩn hiểu nổi giữa chiến dịch oanh tạc Rolling Thunder và Linebacker khác nhau như thế nào
    Chúng tôi đang bay ngang một cánh rừng chồi, nằm bên trái con đường, “rừng chồi gì?” nương rẩy của lính BV đây mà! Những luống Khoai-lang lẩn lộn Khoai mì nhánh lá xum xê phủ lấp lên trên ấy, thỉnh thoảng lại có vài cây Bắp chêm-châm thêm trên luống, không ảnh làm sao phát hiện và giải đoán cho được! Chỉ có những chuyến bay kỳ quái trong “chiến-sữ” Việt-Nam mới phát hiện được huyền thoại nầy. Giữa vườn bắp lại có hình nộm mặt đồ bộ-đội Cộng Sản. Chim rừng đói quá chúng đâu có sợ Cộng Sản là gì!
Con đường đất đỏ nầy sắp sửa băng qua một con Suối cạn, những hoạt cảnh khác hơn con Suối trước một chút. Không có dây rừng làm dấu chuẩn, Họ lấp đá lên cao khỏi mặt nước, mà chả có chòi gác; Chúng tôi lướt qua quá nhanh trong yên tịnh, Tôi nghĩ: Hồi nảy là “cầu chìm” bây giờ là “cầu nổi.” Nếu như trời mưa bảo ngập nước, tài xế cứ việc chạy giữa những gút vải Ðỏ là an-toàn, Chúng tôi bắt đầu bay vào thung lủng Aluối chạy dài tới Ashau rồi tới Atep. Thung lủng là một thãm xanh đồng cỏ, chiều ngang 2 cây số, chiều dài 40 cây số, nhưng Tôi lại không dám bay giữa thung lũng dù bất cứ vận tốc hoặc bất cứ cao độ nào. Vì hai bên bìa đồi là lính BV đã thiết lập những ổ phòng không cố định chỉa về phía Ðông nơi các phi cơ thường hay xuất hiện từ hướng đó, Tôi căn cứ vào địa lý cũng như quan điểm quân sự thì nổ lực phòng không của BV chỉ nhắm vào phi cơ chiến thuật oanh kích từ ngoài biển đi vào. Tuy không dử dội như ở Căn Cứ Tiền phương, Sào-huyệt Ðoàn 559, nhưng đây là vị thế rất bất lợi cho trực thăng vì thiếu các chướng ngại vật thiêng liêng như vách núi, đồi cây, sườn núi, rừng già, khe tránh hướng gió tránh âm thanh, không có những cụm mây Stratus thấp lè tè che khuất tầm quan sát của địch.
Nói tóm lại hai cạnh đồi hai bên của thung lủng, lính BV chỉ có phối trí cố định súng phòng không ở bên sườn đồi phía Ðông để mở rộng tầm quan sát, làm sao đây, chúng tôi đang bay về hướng Nam đến đỉnh núi Atep thuộc vùng Tà-Bạt, nhưng bắt buộc phải bay phía Tây của dảy đồi trọc đe dọa, làm sao để tránh tối đa trong tầm đạn phòng không, cánh cửa chính lại nằm ở bên phãi mà phi vụ chính là bay chụp “không ảnh” thì làm sao? Tôi thét lớn trong nón bay: “Ê Mai! Mở hai cánh cửa sổ bên trái… mau lên, tạm thời bảo Duncan và Nhả qua bên đó chụp… không thể ở bên nầy chụp… phãi đổi chiến thuật vì địa hình thế đất thay đổi đột ngột”
Phi cơ đang thoáng nhanh trên đồi trọc, bỗng thế đất tuột về hướng Tây quá gắt, không kịp phản ứng nhưng phãi chúi mũi xuống thấp ôm sát sườn đồi. Gió đập mạnh phi cơ hụp xuống quá nhanh; Những cảnh hải hùng đến kinh hoàng đang chui vào mắt chúng tôi. Có lúc bánh xe càng đáp như muốn đụng vào ổ phòng-không, những cột antène và lẩn lộn các cột bằng Tre với dây điện thoại nối dài chằng chịt trên đó. Tôi tin chắc cánh quạt đã dớt đi một vài cộc Tre cùng dây nhợ trên ấy không chừng? Ổ phòng không với hầm miệng Ếch màu đất còn đỏ tươi của đất núi đập vào ngay mắt chúng tôi, thậm chí còn thấy được anh bộ đội mặc áo thung chưa kịp nhìn lên; Hai nòng súng song song chỉa lên đen ngòm, nhưng tại sao chúng không ngụy trang bằng những sợi dây leo có lá như những chỗ khác mà chúng tôi đã bay qua? Tôi chắc rằng sẽ có những tấm hình chụp cách họng súng chưa đầy 20 thước, nhưng tiếc không có xạ thủ trên giàn súng. Rồi thì xa về phía đồi bên kia, giữa cảnh màu xanh của đồi trọc, rải rác biết bao nhiêu cái miệng Ếch màu đất đỏ đã trở nên màu bầm dập như gạch nung, nhiều đến nổi chúng tôi phải rùn mình. Mong rằng các xạ thủ đừng nhìn thấy những người bạn không mời mà tới; Tôi đoán chắc rằng gió biển thổi vào sẽ che lấp âm thanh máy nổ của chúng tôi xuôi sau hướng gió
Bên trái, dưới thung lủng có nhiều đường mòn cũng hướng trục về Ðông-nam, màu đất của sình lầy không phải màu đất đỏ mà chúng tôi thường bay song song, nhưng lại Tôi không dám bay sát gần đường mòn, vì không những hàng trăm mà hàng ngàn con mắt đang theo dỏi, và sẽ bị bắn rụn ngay trên đó. “Can đãm nhưng phải có trí-tuệ” đó là câu nhựt tụng mà tôi thường đem ra dạy dổ các phi công biệt kích; Bất chợt chúng tôi phát hiện hai chiếc xe Trâu, chiếc trước chiếc sau cách nhau vài thước vừa ló dạng sau đám rừng cỏ-lau cao hơn đầu người, làm sao biết chúng chở những gì trong đó vì đang ngụy trang đầy cành lá, đang đến cuối thung lũng Tà-Bạt. Thế đất cao dần, chỉ nhập lại thành một con đường lớn mà chiếc xe đầu đang vào. Tôi tăng tốc lực ôm sát đọt cây trở về bên trái con đường. Tôi báo cho Mai biết để thông báo cho Duncan , Nhả biết để trở lại vị thế bên cửa chính bên phải như thường lệ
Con đường đang từ từ lên cao, Tôi sợ mất nên bám sát thật kỷ, lá rừng dầy đặt, cây cối mổi lúc một cao dần; Con đường đất đỏ lúc ẩn lúc hiện chúng tôi càng dỏi mắt theo nó. Lại mất hút nữa rồi; Tôi bấn xúc-sích hỏi Ba người ngồi dưới phụ giúp tìm nó ra giùm tôi; Tôi nghe trong nón bay, Hảo nói “Nó bên trái nè” Tôi nhìn qua Hảo thấy hắn chỉ ngón tay trái xuống dưói cánh cửa, quẹo gắt qua trái chụp nó ngay không nó sẽ mất. Chúng tôi đang bay lướt trên ngọn cây cách phía Tây Bạch Mả chừng khoảng chục cây số; Con đường đang hiện rỏ ràng dưới ánh nắng chan chói của một vùng trống trải. Càng tróng trải càng có nguy cơ bị trúng đạn, Tôi bay thật thấp như muốn đụng vào ngọn cây, với vận tốc tối đa, dĩ nhiên trên phi cơ ai ai cũng trống ngực đập thình thịch. Ở nơi đây mọc ra chi chích nhiều đường quá, có người kéo xe thùng mà Cộng sản gọi là xe cải tiến cho oai, không biết chở những gì trong đó. Tôi cố bám theo bên trái con đường lớn vì nó nằm gần rừng hơn. Nơi đây khá trống trải qua một cánh rừng chồi nên hiện rỏ lộ ra song song với con đường như có ống cống nổi, chắc là ống dẩn dầu? Ồ, ở trước mặt có một làng nhà tranh to nhỏ đủ loại; Hình như trang trại hoặc nhà kho, Hội trường, Nhà hát chiếu phim; Ô! Họ đang chơi đấu bóng chuyền, Tôi liền tăng thêm vận tốc mặc dù máy đã quay tối đa rồi. Họ ham vui nên không có chuyện gì xảy ra cho chúng tôi
Chúng tôi đã qua vùng nguy hiểm, bây giờ Tôi bớt sức máy, tiếp tục ôm sát bên trái như ôm một nhân tình, chẳng lẽ suốt đoạn đường đời? Trước mặt lại xuất hiện nhiều ụ đất, cái gì nơi đó, Chẳng lẽ kho đạn lộ thiên! Trên đó lại có nhiều đường cắt ngang giống như cây thánh giá bao quanh trọng điểm một nhà tranh khá lớn, trên nóc lại che một tấm ni-lông màu xanh nước biễn để làm gì!? Ðể che mưa vì sợ dột, hay để làm dấu cho chúng tôi khỏi bị bay lạc; Sao chổ nầy vắng tanh như âm phủ trên trần gian vậy! Chúng đi đến chổ chúng tôi vừa bay qua để xem đánh bóng chuyền!? Nơi đây Toán thám sát biệt kích người Thượng Yard và Mỹ đã khám phá ra vô số như là một trái núi hoả tiển 122 và 107 Katyusha của Liên Xô để pháo vào phi trường Ðà Nẳng, nhưng Toán chỉ được lệnh chụp hình lảnh thưởng chớ không được đốt phá nổ. Trò chơi chiến tranh nầy thật vô cùng dã man! Biến những trái hoả tiển nầy thành quà tặng hải hùng cho người dân Ðà Nẳng. Chỉ tội nghiệp gây biết bao thảm trạng cho người dân hai Miền, tai-họa từ đâu đến! làm sao thế giới hiểu được đây là tấm bi thãm kịch “Eurasian Great Game”mà SCP Mỹ đã cho ra đời từ 1920 cho đến khi kết thúc cuộc chiến Việt Nam sau 50 năm (2025) khi mà những thế hệ dính líu hai cuộc chiến tranh Việt Nam không còn nửa thì sử gia mới có đủ bằng chứng để dẩn-giải.
Lúc nầy là thời gian bức thiết nhứt, họ buộc phải kéo dài chiến tranh vì số quân Mỹ phải từ từ rút về theo đúng lịch trình để nâng đở các hảng hàng không không bị vở nợ và nó cũng là một quyền lợi cấp thiết nhứt cho chương trình CIP. Nhưng nuôi dưỡng đến chừng nào! bao lâu? Cũng tương đương thời gian người Pháp gây chiến; Trong khi quân đội Mỹ mở các cuộc hành quân “Lùng và diệt địch” thì CIA nuôi dưởng tìm mọi cách che chở bảo vệ địch. Nhưng nhiệm vụ của họ cũng rất rỏ rệt: Quân đội lo trau dồi học tập trận chiến, còn CIA chăm lo quyền lợi của Ðảng Công ty WIB [War Industries Board]
Tôi giao tay lái cho Hảo, cảm nhận nên ngồi thư giản thần kinh một lát.
“Hảo … Anh lái đi…bay cách nào mà Duncan và Nhả chụp được tổng quát” Theo kinh nghiệm dưới con mắt nhà nghề của Tôi, nơi nầy cũng chẳng có những gì để chụp… toàn rừng già, không có sự hoạt động của loài người, Hảo lại cẩn thận bay cao lên đôi chút, nhưng không sao. Nơi đây không có chỉ dấu một sự đe dọa nào, bỗng nhiên, một bầy chim Két xanh mỏ đỏ nghe tiếng động vọng tới, ù bốc bay lên từ những lùm cây cao rậm rạp, có tới cả trăm con. Không kịp né…vài chú đang bị cánh quạt chánh chém vào, máu me lông lá dính vào mặt kính cũa phòng lái; Bầy Két nầy mà xà xuống vườn Bắp thôi đừng hòng còn dính lại một hột
“Hảo ơi … Anh mang tội sát sanh rồi!” Tôi thét lớn lên không ngoài mục đích để phổi tống ra những ám khí không trong lành mà nảy giờ đang ém nhẹm nơi đó, trong phòng lái qua khung cửa kính, Tôi lặng yên kéo hơi thuốc lá đầu ngày, đã được dành sẳn trên túi áo nơi cánh tay, đôi mắt mơ màng ôn lại những câu thỏ thẽ của người đẹp Ni căn dặn phải làm như kinh nhựt tụng của mỗi chuyến bay. Không khác gì phi công làm “tiền-phi” đọc check list, nhưng có bao giờ tôi nhớ đâu. Như tận hưởng những giây phút thoải mái hiếm hoi nầy, tiếng cánh quạt chém gió hòa vào âm thanh động cơ đều đều xen lẩn với tiếng gió ve vuốt nơi cửa kính, thân tàu, đã giúp tôi trong khoảng khắc tạm quên bao khổ ải hiểm nghèo trong đời phi công biệt kích, cũng như những sự chú tâm rình rập của người anh em thù nghịch dưới đây. Chả trách gì có lúc thế nhân cứ thi vị hóa lối sống cũa những người như chúng tôi; Những nhà văn, nhà thơ, những nàng kiều nữ mộng mơ thường tả “mây” là những gì thơ mộng, huyền ảo, nhưng nếu là phi công biệc kích như chúng tôi: “mây” là bức tường thành bảo vệ chúng tôi che cặp mắt người xạ thủ phòng không nhưng chúng tôi cũng dựa vào mây trong những đêm về sáng để chấp nhận những yếu tố bất ngờ. Nhưng có ai hiểu cho chúng tôi đã phải hy sinh mạng sống 100% vì thời tiết, trong khi chúng tôi chưa bao giờ bị thiệt hại do súng đạn của người anh em thù địch. Có chiếc H-34 đả chịu đựng đến 88 viên đạn AK mà vẩn lết về được nơi an-toàn và cứu sống cả một Toán thám sát. Sự thật mây đâu có phủ phàng mà là kinh hoàng cho chúng tôi! Nhưng đôi khi nó cũng cứu chúng tôi che những cặp mắt thù địch! Tuy nhiên cũng có dăm sự ganh tị nho nhỏ khá dể thương của các cánh chim bạn, sao không được tuyển vào kinh qua lẽ sống ngang dọc của phi hành đoàn Thần Phong-83!
Chúng tôi đang bay ngang bên phải là Bến-hiên, còn bên trái là Bến-Giang, xa về phía biên giới Lào Việt là tiền đồn Poste-6 chỉ cách biên giới vài cây số. Trước mặt là Aro và chệch qua trái là đồn Rô nó nằm ngay trên quốc lộ 14 do thực dân Pháp xây dựng từ khi chế độ thuộc địa được thành lập, nhằm mục đích khai thác các tài nguyên và khống chế các lực lượng nghỉa quân của phong trào Cần Vương ngày xưa. Ngày hôm nay chúng tôi đã có cơ duyên cũng như diểm phúc được bay ngang hai cái ‘nôi’ của Cách mạng Việt Nam . Cái đầu tiên ở phía Ðông Bắc ngọn núi Vôi Coroc, bên kia vĩ-tuyến 17 ngay đèo Lập-Cập, nơi mà Vua Hàm-Nghi mai phục chờ cơ hội lấy lại ngai vàng. Nơi đây cũng là địa điểm phân phối vàng và thuốc phiện từ Lào sang qua ngỏ Poste-6, Bến Giang, Thường Ðức, do những tay tứ chiến giang hồ trong giới trùm buôn lậu quốc tế.
Bây giờ, bắt đầu bay qua vùng đất đầy thử thách, đe dọa, Tôi liền chụp tay lái đâm đầu mau xuống thấp theo bên trái con đường mòn ngoằn ngèo như con rắn Ðỏ-cam trườn qua đám cỏ Lau xanh. Thế đất bắt đầu cao dần báo hiệu sắp đến vùng núi cao hiểm trở; Những ngọn đồi thoai- thoai dợn sóng nằm ngang với những luống đất trồng những cây khoai mì, lá phủ xum xuê, lác đác vài cây Bắp vươn lên èo-uột không đủ cho loài Két liên-hoang vào buổi giao mùa. Ở giữa hai luống còn dặm thêm vài bụi Cải bẹ xanh, đứng xừng xửng ở giữa lại một hình nộm với áo bộ đội để hù dọa bầy Két
Kể ra thì người anh em cũng có sáng kiến ngụy trang khá khéo léo vì trinh-sát cơ U-2 và RF-101 làm sao giải đoán không ảnh với hình tiệp với lá rừng nhưng duy không thể che cặp mắt soi mói của Duncan và Nhả. Nơi đây khá nhiều sinh hoạt của lính BV. Cây cầu Khỉ bắt ngang con Suối nhỏ với lối mòn hiện rỏ nét biết bao sự qua lại trên đó, cỏ rạp rộng ngã qua hai bên lối mòn, bên kia Suối nhiều mái lá còn mới toanh mọc dọc theo dòng Suối với khoảng cách khá đều. Họ cũng rất tinh khôn không dám đụng đến phần đất của đồng bào Thượng. Rất dễ hiểu vì đồng bào Thượng thường ở chung với nhau trong một Sóc-Làng, nhà sàn cao hơn mặt đất chừng hai thước, nằm trên một chiều hình chử I. Hoa màu người Thượng chỉ cần trồng một thứ như Bắp, Khoai. Họ không có trồng tạp nhạp để ngụy trang như lính BV, có nhiều trảng đất bỏ hoang vì đất hết mầu mở, nhưng họ sẻ trở lại trồng trong vài năm sau khi đất tái hấp thụ màu mở thiên nhiên, vì không có phân trồng nên họ phát rẫy, đợi bụi lá vàng khô lâu ngày, rồi lúc đó Họ mới đốt để lấy phân tro-muối. Tro tàn lá mục là lớp phân duy nhứt rất cần thiết cho sự sinh tồn đối với họ
Bắt đầu lại bay vào vùng nguy hiểm, trước mặt là cây rừng bị phá để khai hoang, hai bên đường nhà tranh mọc rải rác xen kẻ như vùng kinh tế mới, lại có xe trâu kéo, xe hủ-lô ống khói chần-dần như ống khói tàu, lại có vài chiếc xe Molotova dường như đang ngừng lại. Con đường đất đỏ bổng đổi qua màu đất sình, nhưng trở nên rộng rãi hơn, dường như đang băng qua vùng lầy lội. “À đây rồi” Bọn chúng chặt thân cây lót ngang đường nằm lúp xúp dưới lớp sình lầy và bên kia lưng chừng đồi xuất hiện nhiều chiếc Molotova đang từ từ lăn bánh. Vài chiếc đi đầu đang mất hút dưới những tàn cây rậm rạp; Chúng tôi bay vèo qua nhanh quá, nên chẳng con ma nào chịu nhìn lên dung nhan tái mét của Nhả và Duncan đang tòn-teng nơi cửa bấm nút liên tục. Nếu lúc nầy chẳng may hết phim hay máy ảnh trục trặc thì thật là quá uổng, dịp may không thể có hai lần.
Trước mặt là vùng Mật khu mà ngày xưa ba chiếc H-34 ngụy trang không bản số đã đáp ba đầu nguồn con Suối. Ba Toán xung kích (Killer Team) mưu toan bắt sống Tướng Nguyển Ðôn Tư lệnh vùng Khâm Ðức nầy; Tôi không nhớ rỏ vào năm nào nhưng chắc chắn là thời Ðệ-I Cộng Hoà của TT Diệm và Trung tướng Trần Văn Ðôn, Bộ tư lệnh đóng tại Huế. “Làm sao bắt sống một cách dễ dàng Tướng BV Nguyển Ðôn” Nhưng Ðại úy Richardson, sỉ quan hành quân Delta Force bắt chúng tôi phải thi hành; Chắc cũng chỉ là thực tập như trực thăng Sikorsky CH-53 cứu tù binh Mỹ ở Sơn Tây 1970 – Tôi còn nhớ rỏ, Ðại úy Richardson bảo chúng tôi, ba chiếc cất cánh khi mặt trời chưa mọc, mỗi chiếc H-34 chở một Toán xung kích 10 người, trang bị tiểu liên xung kích của Tiệp Khắc và phóng lựu, đột kích chớp nhoáng chỉ trong vòng 5 phút ngay khi có tia nắng đầu tiên của mặt trời ló dạng, rồi rút về ngay. Khi đáp xuống sườn đồi thoai thoải nghiêng trái, Tôi cũng chẳng cần vội vả cất cánh bay vòng vòng. Nhìn xuống bánh đáp càng bên phải, Tôi phát hiện ra một ngôi mộ còn mới không hương khói, xung quanh trồng đủ loại hoa màu làm tôi bở ngở ngạc nhiên trong tằm mắt
Bảy phút sau, các Toán đều trở về trực thăng, chúng tôi bay trở về hậu cứ. Chả thấy Toán nào báo cáo bắt được Tướng Nguyễn Ðôn mà chỉ nghe Cơ-phi Vàng nói: “Chỉ tịch thu được một bộ đồ Tướng, một cái quần Jean và một mớ bao cao-su ngừa thai. “khó tin … ở trong rừng mà Tướng CSBV cũng ‘en-doi’ nữa sao?”
Ðồn Chalang cách đây chừng hơn một cây số đường chim bay, hồi trước rừng già trùng điệp bây giờ quá quang đãng, đồn nằm ngay ngả ba con Suối nhỏ. Những khi trần mây chụp xuống thấp, phủ kín thung lũng, các vận tải cơ C-47 thả dù tiếp tế bó tay. Lại phải nhờ vào các chiếc quan sát cơ L-19 thả gạo như khu trục thả Bom, báo hại các quan sát viên nào yếu sức phải ói mửa tùm lum, vì không có cách nào để thả cho được chính xác, bằng cách chúi mủi phi cơ với gốc độ đáng kể, nhưng một bao như vậy chỉ được 8 kilô gạo để sống lay lất qua ngày chờ trời tốt lại. Xa hơn nữa là tiền đồn Dak-Prau, tiền đồn cao nhứt nằm trên chóp núi gần 4000 bộ, chệch về phía Tây nam một tí là ngọn núi cao nhứt của miền Nam Việt Nam, đó là đỉnh Ngọc Linh cao 6200 bộ. Nơi đây biết bao nhiều huyền thoại xảy ra có lúc được xem như là “Tam Giác Quỷ” của miền Nam hồi đó, không thua gì “Tam Giác Quỷ” của Ðại Tây dương, nhiều phi cơ Việt Nam và Hoa Kỳ đã rớt rải rác nơi đó như những cuộc lể tế thần nhưng không chiếc nào bị phòng không của địch hạ.
“Hảo, Anh lái… mình về Quảng Ngải ăn cơm…đói rồi”
Tôi đang lim-nhim đôi mắt trong giấc ngủ chập chờn cùng âm thanh đều đều thoảng mát   

Trương Văn Vinh

Tuesday, June 28, 2011

Mệnh số 2 PHÐ/PÐ/219 đi về đâu?


     Nằm trên chiếc ghế-bố Quân đội, tôi co-ro trong chiếc mền không đủ ấm giữa rừng núi Khe Sanh, thế-giới nơi đây, tôi như bị giam hảm thu hẹp dưới 4 góc mùng xám xịt đen tối, không lối thoát, rồi trăn-trở, trằn-trọc không sao ngũ được. Bây giờ tôi phải làm sao đây!? Khi mà chiến tranh đi đôi với tang tóc! Tôi cầu mong làm sao đừng có xãy ra thảm cảnh đó nữa, hoang mang lo-lắng cho Liên đoàn/51/Tác Chiến của mình! Và nhất là các Phi-đội/233 và Phi-đội/219 … cứ miên man suy nghĩa mà không làm sao chợp mắt được, tự nhủ lòng là từ nay trở đi, phải dấn thân bay tiên phuông trong lửa đạn, là con Chim đầu đàn QueenBee1, phải cất cánh sớm nhứt, mà lại về đáp cũng trể nhất. Tôi sẽ giao cho Đại-úy Trần Duy Kỳ hay Trung-úy Trần Lê Tiến, phụ tá hành quân thỉnh-thoảng đi họp thế; tôi dành hết thời gian cho cuộc hành quân nầy bằng cách cầm lấy chiếc Trực-thăng Võ trang mà hướng dẫn, đưa đón các cánh Chim non đang lặn hụp dưới bầu trời mới lạ, xuất phát từ biên-giới lúc đi cũng như lúc về, lấy điểm hẹn từ Trại tù Lao Bảo làm nơi điểm xuất phát. Chỉ có tôi là QueenBee-1, người duy nhất hiểu rõ được địa hình nơi đây từ ngọn núi, con sông đến đồi cao khe-suối, những đám rừng nguyên thủy chưa có dấu chân người, ngọn núi Vôi Cô-Rốc vàng óng-ánh dưới ánh bình-minh. Nhưng hôm nay bay trở lại, mọi cảnh vật khai-quang trống-trải rất nhiều, nhất là trên trục đường Mòn 559 mà tôi đã bay ngang qua đây không biết bao nhiêu lần, giờ thì quá trống-trải, đường đất Đỏ Cao-nguyên đâm chồi, chi-chít thêm ra, màu xanh trùng điệp của cánh rừng già giờ đây đã có quá nhiều loang-lỗ, rải-rác những nhà to với mái đan bằng Tre-Nứa đập dập, có lẽ là những nhà Kho hay Công-binh xưởng chăng? Chỗ Thiếu-úy Phan Ngọc Huệ đáp xuống thả Toán Thám sát STRATA (1964) vào buổi chiều choạng-vạng, cánh quạt chém vào cây, tôi phải đặt càng bánh xe lên đầu trục cánh quạt của hắn mà đem hết Phi hành đoàn về, nơi đây, bây giờ là Hậu-cần 611, cũng đã phát hoang trống-trải và có cả ống dẩn dầu băng ngang qua thì phải?
 
      Cuộc hành quân mới phát khởi được 3 ngày N+3 (10/2/1971) mà 2 phi hành đoàn đã bị Thiết-xa PT 76, cùng phòng không 37ly bắn nổ-tung trên không phận nầy, dưới đây, ngay bây giờ là ổ Kiến Lửa! Xe vận tải ngang nhiên di chuyển mà chẳng hề sợ-sệt phi-cơ phát hiện nhờ cái Dù điều lệ ROE của trục Ma Quỷ: Ðoàn xe chạy ban đêm bật đèn mờ và ban ngày ngũ cho đúng luật ROE, còn như ban ngày khi qua các con suối cạn mà nghe tiếng phi cơ thì tài xế cứ việc tắt máy nối đuôi chờ thì không phi công Mỹ nào dám oanh tạc cả (điều nầy chỉ có quan sát viên người Việt backseater là nhân chứng sống)
      Tôi bóp đầu nặng óc tìm ra chân lý cũng như tìm ra định-luật về chiến thuật để bảo vệ cho con em mình không còn bị thảm hại … đang miên-man tìm ra chân-lý. Tối bổng nhớ lại ngày xưa khi thành lập phi đoàn trực thăng đầu tiên, người anh cả thiên tài Nguyễn Huy Ánh đã giản giãi danh hiệu “Thần-Chùy” sau khi đặt tên cho PÐ/211; Ðã xưa lắm rồi, khi con người tìm ra vũ khí để chiến đấu với kẻ thù; Người hiệp-sĩ khi xử dụng chiếc Chùy-thung phải có sức mạnh phi thường, tuy đường chùy vun-vút có chậm hơn các vũ khí như gươm, kiếm, mả tấu, thanh long đao, chĩa ba, thước bảng, roi xích... nhưng tất cả vũ khí trên khi đụng phải Thần-Chùy đều rơi rụng tung-toé vào mọị phương hướng vô định!!!
     Tôi lại bóp trán mĩm cười … vổ mạnh lại lên trán trong nỗi mừng vô hạn … Chân lý đây rồi! Chân lý đây rồi!!! Chiến-thuật “Ngụy-Âm Ðộn Rừng” Trong đôi tay tôi đang có thủ-thuật “Song-Chùy” làm ra chiến thuật áp đảo đối phương. Trực thăng vỏ trang của KQVN là loại bay chậm nhứt thua cả Cobra của Mỹ chớ đừng nói chi đến các phi cơ chiến thuật tìm kích, nhưng tôi lại đã phát hiện ra một chiến thuật tân-kỳ và vô cùng mầu nhiệm: Có chiến hửu nào đã tham dự chiến trận tại rừng già chiến khu D, Ðồng Xoài, và rừng cao-su Bình Giả thì có thể hình dung ngay khi bạn đứng giữa rừng già mà chỉ nghe tiếng bành bạch của cánh quạt chém gió từ xa trên ngọn cây bay đến; Bạn làm sao xác định được trực thăng từ phương hướng nào bay đến? Và khi nghe tiếng gầm thét áp-đảo của Minigun như con khủng long phun lửa xuống, thì tự động bạn phải tìm chổ nào an-toàn gần nhứt để trú ấn. Nếu là chiến xa thì phải chui xuống pháo tháp mà trú ẩn để sống còn theo phản xạ tự nhiên của con người. Kết quả nầy đã chứng minh hùng hồn qua sự ghi chép trong quân-sử Mỹ-Việt (US Army Center of Military History 1980; Lam Sơn 719 General Nguyễn Duy Hinh; và Military History Institute of Vietnam) dưới đây là sự so sánh giữa Sư-Ðoàn 101 Không-Kỵ và Liên Ðoàn 51 Tác Chiến theo như tài liệu SOG/MACV, kết quả sau 45 ngày chiến đấu quyết liệt: Sư-Ðoàn 101 Không Kỵ: Chết: 215, Mất tích: 38, Bị thương: 114;.Liên Ðoàn 51 Tác Chi ến: Chết: 10, Mất Tích: 4, Bị thương: 11 – (có phải nhờ “Chiến Thuật “độn rừng ngụy âm”
      Ngày 22/2/1971- Cã đêm rồi tôi không thể chợp mắt được cho dù đã quen dần tiếng ầm vang cũa 42 khẫu trọng pháo Mỹ bắn yễm trợ, khuấy rối, mà chĩ mong đợi cho mau sáng để gởi PHÐ H-34 vào cứu Giang, On, và Sơn. Nhưng ác nghiệt thay trời hôm nay sương mù giăng đặc sệt như cháo đậu (Pea-Soup) Ðã 10 giờ sáng mà trời vẫn còn mù mịch. Ngay khi trời vừa thoang thoảng thấy được là tôi phải đem gunship bao vùng cho Ðại đội Trinh-sát Dù đang cần mở đường tiếp cứu Ðồi-31; Trước khi cất cánh tôi có liên lạc với sĩ quan điều không tiền tuyến Ðại- úy Không Quân Nghĩa và Trung úy Chính sĩ quan Không Trợ Dù liên lạc với PHÐ hướng dẫn họ vào hướng nào cho ít nguy hiễm.
      Tại BCH Tiền Phương Dù, khi tôi vừa cất cánh thì một tiểu đội tác chiến điện tữ Dù đang chờ nơi bãi đáp bên cạnh một chồng máy Sensor dùng để phát giác đặc công địch. Những máy nầy đã giúp cho Trại LLÐB Mỹ thoát khỏi bị bao vây, ngay sau khi Ðại úy Nguyễn Minh Vui và Thiếu úy Châu Lương Cang liều mạng đáp xuống Trại Pleime với lối bay chiếc lá cuốn theo cơn lốc, khi cất cánh dùng chiêu-thức “Khũng Long áp-đảo”, làm cho địch ngơ-ngác không biết phi cơ từ đâu đến lướt thoáng trên ngọn cây, dù vậy một binh sĩ mũ nồi xanh cũng bị trúng đạn ngay đầu, chết liền tại cabin, máu tràn lênh láng trên sàng nhôm.
 
     .Bầu trời bắt đầu trong sang, tôi nghe tiếng Thiếu úy Bữu đang đáp xuống LZ Tiền- Phương Dù. 10 phút sau tất cã pháo Long Tom 175, 155 ly và 8 inch cũa Mỹ tiền oanh kích trước mũi, dọn mỡ một hành lang dọc trên đường bay. Nhưng quân BV rất tinh ranh khi nghe loạt pháo đầu là chúng chạy vào hầm ngồi nghĩ, cho đến khi ngừng pháo kích thì chúng lại chui ra giao chiến. Tôi cắt đặt 2 chiếc Gunship air cover cho 2 chiếc H-34 cũa Bữu và Yên, dù sao Gunship mình tuy có ít hoã lực nhưng cấp cứu anh em trong Liên- Ðoàn vẫn bão đãm hơn Mỹ. Tôi rất tin tưởng Thiếu úy Phạm Vương Thục, một Top Gun rất anh dũng dám sống chết vì anh em luôn luôn sẳn sàng hy sinh cho đồng đội, tôi không tin vào Army Aviation Mỹ vì khi có chiếc nào cũa Mỹ rơi thì họ bỏ bay đi tìm cứu đồng đội cũa họ mà quên anh em mình, như tôi là nhân chứng cho nhiều hoàn cãnh như vậy.
     Tôi nghĩ Ðại-úy Nghĩa và Trung úy Chính Sĩ quan Không Trợ Dù sẽ chĩ dẫn đường bay nước đáp cho Bữu qua cố- vấn cũa Thiếu- úy Giang. Vì phòng không di- động trên PT-76 rất lợi hại hơn các phòng không cố- định, 12,7, 14,5 và 37 ly nằm rãi rát mọi nơi, nhiều nhứt nơi hướng đông bắc, không nên đáp vào hướng ấy mà nên đáp từ hướng tây nam xuống LZ, dù sao cũng có TÐ /6 Dù m ới vừa trực thăng vận, tuy bị nhiều thiệt hại cho quân TÐ-6 Dù, nhưng Top gun Trần Lê Tiến, Hoàng Ngọc Châu … đã oanh liệt thay phiên nhau gây thiệt hại nặng nề cho 2 trung đoàn cơ-động 27, và 24B của Quân đoàn 70B. Giang đã trình bày cho Bữu biết, hắn đã dùng chiến thuật đáp như chiếc lá cuốn trong cơn lốc, nhưng kẹt nỗi quân BV cứ khi nghe tiếng trực thăng thì họ giội trận địa pháo tới tấp xuống, vì họ đã có tiền điều chĩnh rất chính xác. Phi-công dù tài giõi thế nào nhưng khi gần tới đất chừng 15, 20 thước thì sẽ bị mãnh đạn văng bắn vào bộ phận cánh quạt đuôi, mất điều khiễn phương hướng rồi rơi xuống quây theo counter clock wise, tại chỗ “undershoot”. Như trường hợp cũa Giang.TPC Bửu đã được nói chuyện trực tiếp với TPC Giang từ trong đồi 31 và được biết, ngày hôm qua khi bay vào vùng, Giang đã dùng chiến thuật "lá vàng rơi", từ trên cao cúp máy auto xoáy trôn ốc xuống, nhưng vì phòng không địch quá dày đặc nên khi gần đến đất, phi cơ anh bị trúng đạn rớt xuống gãy đuôi nằm bên cạnh vòng rào phòng thủ ngoài cùng của Lữ Ðoàn 3 Dù. Phi hành đoàn vô sự, chỉ có copilot là Võ văn On bị xây xát nhẹ ở cổ, tất cả chạy thoát được vào trong căn cứ Dù. Nhưng trước khi bỏ phi cơ,co phi Trần hùng Sơn không quên vác theo cả cây M60 trên cửa máy bay nữa. Rút kinh nghiệm, hôm nay Bửu bay Kạ-càng bánh xe lướt thoang thoáng trên ngọn cây theo chiến thuật biệt- kích razed-mode lướt từ hướng Ðông-Tây đi vào, nhưng làm sao đừng gây ra tiếng động. Trên đường bay dọc theo quốc lộ số 9 TPC Buu còn nhìn thấy những cột khói bốc lên nghi ngút, chứng tỏ pháo binh cua My noi Khe Sanh bắn rất chính xác và hiệu qủa. Gần đến LZ, Bửu đổi hướng lấy Ðông Nam, roi Tây Bắc để đáp xuống; Vừa ló ra khỏi rặng cây,TPC Bữu đã thấy chiếc Gunship của TPC Thục bay vòng lại, cùng với tiếng Thục la lên trong máy "Bửu coi chừng phòng không ở hướng đông nam". Từ trên phi cơ nhìn xuống, giữa màu xanh trùng điệp của rừng cây nhiệt đới, ngọn Ðồi 31 đỏ quạch nổi bật với những đốm bụi đất tung lên từng cơn vì đạn pháo kích đào xới của cộng quân Bắc Việt. Không nao núng, Bửu vẫn điềm tĩnh tiếp tục đáp xuống- Khi phi cơ còn cách mặt đất độ 15 thước thì trúng mãnh đạn cối 120ly, khắc-tinh chống trực thăng, phi cơ phát hoả, bùng lên một đám khói bao trùm cả phi cơ, cơ-phi Em la lên khẩn cấp trong máy "đáp xuống, đáp xuống anh Bửu ơi, máy bay cháy". Cùng lúc Bửu cũng cao tiếng báo động cho chiếc số 2 "Yên ơi, tao bị trúng đạn rồi, đừng xuống nữa" trong khi vẫn bình tĩnh đáp xuống
May mắn là đạn trúng vào bình xăng sau đã hết xăng, chỉ còn ít hơi đốt, nên trực thăng không bắt cháy như chiếc cũa Thiếu-úy An ở Bù Ðốp hôm nào. Vừa chạm đất, theo phản xạ Bửu nhanh nhen nhảy ra khỏi trực thăng. Mọi người chạy ngược lên đồi về phía hàng rào phòng thủ thứ nhất của đại đội công vụ Dù cách khoảng 100 thước, để lại một cảnh thương tâm hiện ra trước mắt, một binh sĩ điện tử Dù bị trúng đạn ngay giữa trán, nằm ngửa chết ngay trên ghế.     
        Trên sàn tàu, đống máy "sensor" vẫn còn nguyên vẹn, Phi hành đoàn phóng chạy lên đồi theo những tiếng kêu gọi của binh sĩ Dù "trên đây nè Ðại uý, tụi tôi bắn yểm trợ cho". Tất cả dân-bay lom khom chạy trong khi tiếng đạn nổ lóc cóc trên đầu; Lên đến nơi phi hành đoàn thở nhẹ-re như bò kéo xe. Dân-bay mà hành quân dưới đất thì phải biết là mệt đến đâu! Tôi phải ghi vào sỗ nhựt ký đơn-vị và nhớ mãi hôm đó là ngày 22 tháng 2 năm 1971; PHÐ vừa ngồi nghỉ mệt, họ cũng vừa nhìn xuống LZ, nơi chiếc phi cơ đang đậu hiền lành, thì cũng vừa lúc quân BV tiếp tục giã trận địa pháo đã điều chỉnh tác xạ, một quả đạn súng cối 120ly rơi trúng ngay tàu nổ tung, bốc cháy thành một cột trụ khói đen mù mịt cả một góc trời. Dân bay nhìn con tàu xụm xuống, lòng quặn lên. Con tàu thân thương đó đã nhân cách hoá, gần gũi với phi-đoàn lâu nay, giờ thành một đống sắt vụn.
    Một lát sau, theo chỉ dẫn của anh em binh sĩ Dù, PHÐ men theo giao thông hào lần về đến ban chỉ huy Lữ Ðoàn 3 Dù. Gặp lại phi hành đoàn cũa Giang, On, Sơn anh em mừng rỡ thăm hỏi rối rít; PHÐ được giới thiệu với các sĩ quan trong ban tham mưu Lữ Ðoàn 3- Ðầu tiên là đại tá Thọ lữ đoàn trưởng Lữ Ðoàn 3, thiếu tá Ðức trưởng ban 3, dại uý Trụ phụ tá ban 3, đại uý Nghĩa sĩ quan điều không tiền tuyến, trung uý Chính sĩ quan Không trợ Dù, thiếu uý Long phụ tá ban 2. Về phía pháo binh thì có trung tá Châu tiểu đoàn trưởng và đại uý Thương trưởng ban 3 thuộc tiểu đoàn 3 pháo binh Dù. Ðại tá Thọ mừng anh em "mới đến" mỗi người một điếu Havatampa và một ly Hennessy để lấy lại tinh thần; PHÐ ngạc nhiên vô cùng, đi đánh giặc, nằm ở tuyến đầu ác liệt vậy mà mấy "Thiên thần" nhảy Dù vẫn thản nhiên hút sì-gà Cuba và uống rượu Mỹ như Trương Phi tân thời! Quả các Thiên thần ăn chơi cũng dữ mà đánh giặc cũng ngầu thật.
      Buổi chiều vùng rừng núi trời tối thật nhanh, dân bay dùng tạm bữa cơm dã chiến với ban tham mưu Lữ Ðoàn rồi chia nhau ngủ ké với anh em Dù; Tin tức chiến sự mỗi ngày một căng thẳng hơn vì đối với cộng sản Bắc Việt, sự hiện diện của căn cứ Ðồi 31 trên hệ thống đường mòn HCM như một lưỡi dao đâm thẳng vào yết hầu của chúng. Vì thế cộng quân đưa thêm quân vào tạo áp lực nặng nề lên căn cứ nay với ý định đánh bật căn cứ ra khỏi sinh lộ của chúng với trung đoàn 24B và trung đoàn cơ động 27 thuộc Quân đoàn 70 B và một đơn vị chiến xa yễm trợ thuộc trung đoàn 202.
 
      Hai hôm sau, vẫn không có chuyến bay tiếp tế nào vào được vì quân BV luôn di-động che-dấu dàn phòng-không của chúng khiến KQVN và HK không phát huy được ưu thế của mình. Mỗi sáng sương mù lại tan rất trễ, mất thời gian tính cho Không Quân Chiến Thuật can thiệp, chỉ có 2 phi tuần F4 đến ném bom cầu-âu vào khu vực khả nghi chung quanh đồi-31 và thỉnh thoảng mới có một đợt B-52 rải thảm từ phía nam đường-9 ầm-vang như tiếng sấm rền từ xa xa vọng đến rồi mọi sự lại chìm vào cõi âm-u của rừng núi trùng điệp. Từ phòng hành quân Pentagon, do tướng Al.Haig làm Chairman, phối kiễm với con mắt nhân chứng cũa tôi, tôi cũng có thể quyết-đoán được, B-52 Arc Light chĩ yễm trợ từ ranh giới phía nam đường 9 trở xuống, Trung đoàn của Ðại tá Ðiềm di chuyễn không đúng lộ-đồ của phòng lạnh Pentagon, cũng bị B-52 đuổi đít thê thãm, (vì họ đánh giặc như bàn cờ trong phòng lạnh với bản-đồ treo trên tường trước mặt là ly cafê đen phi-phào điếu thuốc) còn từ đường 9 trở về phía bắc thuộc vùng trách nhiệm cũa Gunship AC-130B, còn như ngay chính trục đường-tiến-sát là đường 9 thì lai cũa Skypot trách nhiệm, vì thế TÐ-8 Dù tùng thiết với Thiết Giáp, chi di-hành trể mà toan chuẫn bị dừng chân nghĩ đêm cũng bi Skypot đuổi đít bằng CBU-24, khi nổ bung ra hàng trăm quã bom nhỏ nổ đều lóm-đóm như pháo bông. Hành động nầy có 2 mục đích: (1) đuổi đơn vị đặc nhiệm phải mau mau đi cho đúng lộ-đồ vào cái Rọ 604 cũa trò chơi chiến tranh trong phòng lạnh với lộ đồ bằng thước chĩ trên bảng, hậu quả TÐ/Phó TÐ/8 bị thương ngày 9/2/1971 (2) trắc nghiệm nếu phi hành đoàn trực thăng bị bắn rớt, cứ chạy xuống hầm quân BV đào sẳn mà núp, AC-130B có thể thã bom CBU-24 trên miệng hầm để chờ cứu cấp, như Ðại-đội Hắc báo đã cứu 7 đoàn viên UH1 cũa Nỹ rớt bên Lào.
      Tất cả hoả lực nầy, chúng đều là con dao 2 lưỡi nếu quân lực VNCH mà thượng-phong thì chính chúng sẽ “làm-bộ” thã lầm cho cân bằng lực lượng cũa cả 2 đối thũ cho trò chơi chiến tranh rất bẩn thĩu. Thí dụ TT Thiệu ra lệnh rút quân không chịu tấn kích vào Hậu cần 604, báo hại Sư-đoàn-2 Sao Vàng nằm chờ phục-kích phải chết oan bằng BLU-82s, BLU-82AL, và B-52 Arc Light, làm xóa sổ sư-đoàn nầy mà phía Hà Nội cũng không dám mở miệng, chĩ tội nghiệp cho người lính nhỏ bé của 2 miền Nam/Bắc từ cấp trung gian trở xuống. Tôi muốn ám chĩ từ cấp Lữ đoàn, Trung đoàn, Liên đoàn trỡ xuống người lính quèn là con thiêu than; Tôi cũng đã đọc một tài liệu mật tại Library of Congress, siêu chính phũ Mỹ (Permanent Government) cho rằng phải tiêu diệt tất cả sĩ quan trung gian vì họ là thành phần ưu tú có nguy hại đến bàn giao Saigon cho Ha-Nội phãi bị tắm máu, vì theo dư mưu thì chĩ rĩ-máu và Saigòn không thành đống gạch vụn khi bàn giao chuyễn tiếp qua 3 vị tổng thống trong 72 tiếng đồng hồ.
Về phía quân BV quyết tâm bao vây theo lệnh cũa thành viên OSS-1945, Võ Nguyên Giáp, chấp nhận đánh trận xa Tchepone chớ không đánh trận gần như căn-cứ Mỹ tại Khe Sanh. Quân bắc Việt tập trung bao vây, tăng cường pháo kích suốt ngày nhằm quấy rối và làm tiêu hao lực lượng Dù theo mưu đồ cũa Pentagon. Những vùng phía bắc đường-9 thì chĩ có Gunship AC-130B yễm trợ, nhưng họ chĩ ưu tiên cho BÐQ vì đơn vị nầy đang bị áp lực cực mạnh; Còn quân Dù chĩ có dựa vào một nhúm Gunships Phi đội 213, nhưng phần nhiều dành cover cho tản thương và tiếp tế, chĩ có yễm trợ tiếp cận (air closed supports) khi quân Dù bị PT-76 hoâc T-54 đe doạ.
 
     Sáng ngày 25 tháng 2 năm 1971, tất cả 2 đoàn viên H-34 từ Ðồi-31 đã nhận được lệnh và khởi sự di-chuyển ra các hầm cứu thương sát bãi đáp chờ đến trưa khi lớp sương mù buỗi sáng vừa tan đi, đích thân phi đội-219 với 3 chiếc H-34 và 3 Gunship cũa phi-đội 213 sẽ yễm trợ một cách ngoạn mục theo kế hoăch rescue của tôi. Rút kinh nghiệm vừa qua tại Landing Zone North và South của BÐQ, tại sao trực thăng Mỹ rớt như chiếc lá mùa Thu? Tại sao phía Mỹ chịu quá nhiều thiệt hại hơn VN? Góp nhặt thực tế lấy ra trong các chiến trận, do các cố vấn Mỹ cũng như Trung tá Robert F Molinelli, Tiểu đoàn trưởng TÐ2/LÐ17/SÐ101 Không Kỵ - Ðại úy Farrell, Phi đội trưởng, Gunship-Cobra C7/17, và Warrant Officer Joel Dozhier đại diện Phi-đội DMZ/Dust-Off cùng debriefing với Topgun trực thăng VN là tôi tại Hàm Nghi, Khe Sanh, để ghi chép vào Học-viên Quân-sư (Military History Institute of Vietnam) tuy rằng gunship KQVN chậm hơn, hoả lực có ít hơn nhưng thực tế rất hiệu quả như:
- (1) Nhanh chóng áp đảo địch quân không thể ngóc đầu lên để chống cự, tại chiến trường Lam Sơn 719, trong khi AH-1G Cobra phải làm vòng phi đạo tìm kích mất thời gian tính, nên địch có rộng thời giờ chuẩn bị trận địa
- (2) Phát hiện địch trước và tác xạ phủ đầu trước buộc địch phải kiếm nơi trú ẩn theo phản ứng tự nhiên của con người,
- (3) Nhiều minigun có xạ thũ tác xạ bao vùng (air cover) là một khắc tinh khống-chế dí-đầu đối thủ trên các thiết xa PT-76 phải nằm rạp xuống, chỉ cần một chiếc gunship lấy tí cao độ bắn rockets chống tăng để hủy diệt dễ hơn bắn một con Nai đang chạy; nếu nơi nầy địch quá đông ta sẽ yễm trợ thêm hoả tiển chống biễn người.
- (4) Chướng ngại vật thiên-nhiên như đồi núi, ngách đá, trên tàng cây (độn rừng) và cao độ rà sát áp đảo, ngụy hóa âm thanh làm cho địch ngơ ngát không biết sát-thủ từ hướng nào bay đến từ trên ngọn cây, nếu ngoan cố sẽ bị minigun tiêu diệt trước khi mỡ mắt nhìn thấy sát thủ vừa bay thoáng qua.
- (5) Có nhiều con mắt Cú-vọ như diều hâu của các xạ-thủ đầy kinh nghiệm chiến trận không thể bỏ xót những con mồi đang nằm trong tầm mắt
 
       Tại TOC dưới hầm Hàm Nghi, tôi đã bàn thão với ba đại-tá Cockerham, Battreallda, cùng Tham-mưu-phó Hành-Quân/QÐ-1, xin được 20 phút ngừng tất cã hoã lực pháo binh tác xạ cũng như không yễm, để chúng tôi làm cuộc đột kích lấy yếu tố bất ngờ cứu tất cã 2 phđ H-34 và thương binh Dù. Sau một hồi lâu bàn thảo suy tính cân nhắc, rồi các đại-tá nầy mới miễn cưỡng chịu chấp thuận. Vòng chờ cũa các hợp đoàn chúng tôi, lấy vùng trời A-luối, 15 phút làm điễm tập hợp như là một vòng chờ cho cuộc phi-diễn bay vào khán đài Ðồi-31. Cuộc rescue nầy do sự quyết định cũa tôi chĩ trong vòng có 5 phút chóp nhoáng trong vòng 20 phút cho cuộc hành quân phãi hoàn thành. Giờ G và Phút P sẽ cho TOC biết ngay sau khi sương mù tan tại vùng hành quân.
       Tôi sẽ đích thân cho TOC biết sau. Sự cấp cứu chĩ cần 5 phút đột xuất trong chóp nhoáng là phãi thi hành cho xong: 3 gunship sẽ bay sát ngọn cây cách nhau 5 giây echelon trái, tằm đạn cuồn sát trên đầu địch 75 thước, trong vị thế cường kích. Ðiễm xuất phát TÐ/8 Dù, từ điễm chạm tuyến cũa đại đội Trinh-sát Dù, bay thẵng về hướng tây-bắc, thẵng đến sườn trái cũa Ðồi-31, trong lúc 3 H-34 ở cách sau 45 giây với cao-độ 150 thước song song với mặt rừng, 3 H-34 theo sau bay thẵng một mạch tới Bunker gần LZ đễ bóc tất cả đoàn-viên cùng thương binh, dưới sự bao vùng cũa 6 bầu lữa minigun cover 4.000 viên phút, rãi đều như trận mưa rào nặng hột, lấy Ðồi-31 làm tâm điễm, chia đều khoản cách trên chu vi oanh kích, tuyết đối không xữ dụng rockets chống Tăng mà chĩ dùng khi hữu sự, dồn nỗ lực rescue càng nhanh càng tốt; chĩ trừ khi lính BV phãn ứng phóng ra khõi hầm trú ẫn và chịu chấp nhận nghinh chiến thì đã bị bất khã dụng vì không tránh khỏi bị thương tích với trên 100.000 cái đinh sắt ghim vào người họ vào lúc cao điễm khi H-34 đang đáp xuống
Từ điễm xuất phát trên đầu 2 Ðại đội Trinh sát Dù bay thẵng đến Ðồi-31 là 4 cây số, theo sau 50 giây trên cao độ 150 thước cách mặt rừng 3 H-34 bay thẵng đến Bunker đễ đón tất cả 2 phđ và thương binh, vì đạn M-60 trên H-34 không nhiều nên chĩ tác xạ khuấy rối (neutralization) khi thấy 2 gunship kè hai bên phụt xuống bằng hõa tiễn chống biễn người, có nghĩa khi cơ-phi trên H-34 thấy từng cụm khói đõ-hồng phụt ra từ 2 gunship kè hai bên, lúc đó cơ-phi hãy tác xạ tự vệ. Chiéc gun số 2, 3 sẽ dùng hoả tiễn chống biễn người để chống trả; Coi như rockets chống Tăng cũa Lead Trần Lê Tiến [Trung úy Tiến và tôi là 2 người đầu tiên xác định gunship với USAF, và S/I.P UH1 với 1st Army Aviation] chĩ đễ dành khi hữu sự mà không dùng càng tốt. Cái quan trọng nhứt là bóc thật nhanh đồng đội và thương binh Dù ra, vì đây không phải muc-tiêu cần phãi tiêu diệt- Thực ra rockets chĩ là những hoả lực tự vệ, Minigun mới vô cùng lợi hại như dĩ vãng đã chứng minh.
     Tôi sẽ bay C&C cùng với sĩ quan tham mưu Tiền-phương Dù, xữ dụng tối đa M-18 cùng M-60 bắn xuống vào những nơi mà sĩ quan tham muu Dù nghi ngờ để phụ thêm hoả lực lúc cao điễm. Thế là chúng tôi sẽ hướng dẫn 3 chiếc gunships trang bị 14 rockets chống Tăng, 28 rockets chống biễn người, dẹp pod-rockets 19 thay vào pod-7 cho nhẹ và trang bị tối đa 12.000 viên 7,62 minigun cho dễ linh-động khi phãi nhào lộn tác xạ; Trung úy Trần Lê Tiến sẽ lead 3 gun bay thẳng vào, trên ngọn cây, từ đám rừng già trước mặt, trên đầu 2 đại-đội Trinh-sát Dù; khi bay qua khõi vị trí Dù 45 giây thì bắt đầu khai hoã: 6 xạ-thũ đứng xỗng lưng chồm ra ngoài rão con mắt diều-hâu giội mưa xuống 4.000 viên phút, nhưng phãi rút kinh nghiệm khi tăng khi giãm cường độ đễ duy trì hệ thống control-box không bị overcharge, bay thẵng một mạch đến bên trái Ðồi-31, lúc nầy Lead gun quẹo gắt qua phãi lên cao độ bao vùng, kế tiếp chiếc 2 và 3 cùng lên cao độ, kè hai bên H-34 vừa mới tới mà phụt rockets chống biễn người xuống bao vùng chung quanh. Tuyệt đối khai thác chướng ngại vật thiên nhiên, tàng cây, ngách núi, cùng khe-đá, phãi chũ động khống-chế đối phương bằng hoã lực cường tập, gầm thét, áp-đão bằng minigun là chính, không cho phép địch ngóc đầu lên chống trã; chĩ xữ dụng rockets khi địch quân dám xuất đầu lộ diện chiu chơi. Nếu có chiến xa cũng bắn chụp lên phũ đầu không cho chúng ló đầu ra khỏi pháo tháp bắn trả; Lead Tần Lê Tiến thấy cần thì một mình lấy cao độ hủy diệt nó, trong khi 6 miniguns vẫn tiếp tục nhã đạn, nhưng tốt hơn tha cho nó mà dành hoã lực chĩ đễ rescue mà thôi. Ðiều quan trọng là cứu phi hành đoàn và thương binh là hoàn thành phi vụ với sự mãn nguyện đối với chúng ta 100%.
     Hợp đoàn cũa chúng tôi sẽ phối họp bao vùng, không cần hoả yễm cũa Mỹ vì cũng chẳng ích lợi gì ỡ vùng núi cao hiễm trở nầy, như Mỹ đã tiền oanh kích một cách vô ích dưới sự chứng kiến cũa chúng tôi, mà còn báo-động cho địch ở vị thế sẳn sàng chiến đấu, hơn nữa lại còn làm cho địch biết trước rồi núp vào các hầm hố kiên cố cùng làm mất thế chũ động và bất ngờ. Rơi vào thế bị động như Mỹ. Ðộng-thái nầy có nghĩa không cho phép địch ỡ vị thế thượng phong chuẫn bị sẵn sàng phãn-kích mà ta phãi giành có quyền chọn thế thượng phong. Trong chiến trận ai giành được thế chũ động thì người đó nắm chắc phần thắng. Trung úy Tiến sẽ cover đễ vào vừa tải thương binh Dù đồng thời bốc 2 phi hành đoàn ra trong vòng 5 phút tối-đa. Trên vùng trời Ðồi 31, 3 chiếc gunships khai thác tối đa, lấy Ðồi-31 làm tâm điễm chia đều cover trên châu-vi hình tròn mà mưa xuống không chừa chỗ nào để địch không có thễ chòi ra bắn trã, vào lúc cao điễm khi H-34 vừa đáp thì được bao phũ kín-mít bằng cã trăm ngàn mũi tên đinh sắt ghim xuống. Nên chắc chắn một điều, hãy quên rockets mà chĩ chú trọng đến mưa đạn minigun, phãi dí đầu mấy tay súng không cho phép địch chường mặt, tôi nghĩ chúng ta có thễ làm được. Cuộc Rescue nầy rockets chĩ là hoã lực tư vệ không cần thiết khi phãi ứng xữ.
Nhưng khốn nạn thay, trời không chiều lòng người, tạo nên một buổi sáng sương mù tan quá trễ. Lợi dụng trong khi sương mù bao phũ, các trung đoàn BV bôn tẫu với ý định lấy thịt đè người bằng xa luân chiến càn quét chĩ một tiểu đoàn-3 Dù trừ (300 tay súng mà thôi) trung đoàn chạm tráng đầu tiên là 24B cùng với trung đoàn 27 cơ-động ỡ hướng tây bắc, chính nó vừa làm thiệt hại cho TÐ-6 Dù, ngay sau khi đổ bộ xuống đễ tiếp cứu Ðồi-31, tiếp theo đó 2 trung đoàn 102nd và 88 đang chuẫn bị tham chiến từ hướng đông-bắc thuộc Quân đoàn 70B, có trung đoàn chiến-xa 202 yễm trợ. Chúng quyết thanh toán Ðồi-31 với bất cứ giá nào
     
      Kế hoặch rescue cũa tôi hoàn toàn bị đình-động, khi bắt thần 42 khẩu trọng pháo cũa Mỹ ở Khe Sanh đã đồng loạt tác xạ vào chung quanh Ðồi-31 vì áp lực của địch vô cùng dữ-dội, trước sự vô cùng ngạc nhiên cũa chúng tôi, như vừa thoã thuận buổi hợp sáng nay. Bây giờ, nơi Bunker Ðồi-31, 2 PHÐ cùng vài thương binh Dù nấp chung với nhau trong một hầm trú ẩn. Ðến trưa khi 2 PHÐ bắt đầu nghe tiếng máy nổ quen thuộc xa xa thì cũng là lúc địch khởi đầu trận, nói theo danh từ quân BV là "Trận địa pháo” dồn dập lên chung quanh Ðồi 31. Than ôi! Ðúng là muôn sự tại nhân thành sự tại thiên. Quân BV đã lợi dụng sương mù chuẫn bị một lực lượng hết sức hùng-hậu, đông như Kiếng mong sẽ chụp 300 thiên thần mũ đõ chống đỡ; Vi dân-bay đã thấy trước qua lỗ châu mai từ trong hầm cứu thương nhìn qua bên kia đồi đối diện, cách nhau một cái yên ngựa, 2 PHÐ thây rõ hai chiếc thiết xa PT-76 còn T-54 không leo lên được nên từ dưới chân đồi bắn trực xạ lên Ðồi, Cả LÐ-3 Dù, mà chĩ có 300 chiến sĩ chống giữ. Quân BV thuộc Trung đoàn 24B/304 và thêm 2 Trung đoàn 9 và 66 xắp sữa tham chiến, chúng đang bôn tập từ hướng đông bắc tới
       Bây giờ Trung Ðoàn 24B đang tiến lên xếp hàng ngang, cùng với quân tùng thiết dày đặc theo sau chung quanh nhắm đỉnh đồi-31 mà nhả đạn. Còn trung đoàn cơ-động 27 đang án-ngữ hướng tây chận TÐ-6 Dù ở bên sườn tây; Những tia lửa nòng súng phụt ra từ các PT-76 và T-54 thuộc Trung Ðoàn chiến xa 202. Dưới Bunker, dân bay thụp đầu xuống cùng nhìn nhau như nhắc nhớ câu mà anh em trong phi đoàn thường nói với nhau mỗi khi lên đường hành quân "Trời kêu ai nấy dạ, đạn tránh người chớ người không thể tránh đạn!" Ngồi trên ghế lái C&C như Ðĩa phãi vôi, tôi không ngờ quân BV mạnh và nhiều đơn vị cấp trung đoàn đến thế, chúng ăm mưu tấn công như bầy kiếng tha hột cơm, làm sao quân Dù phòng thũ cũa ta chĩ có 300 tay súng chống đỡ? Có cã thiết vận xa PT-76 và chiến xa T-54 từ dưới chân núi bắn trực xạ lên
Ngoài kia, trong từng giao thông hào binh sĩ Dù chống trả mãnh liệt, nhất là những pháo thủ pháo đội C trên căn cứ 31, với những khẩu pháo đã bị hỏng bộ máy nhắm vì pháo kích 152 ly xuyên phá cũa của địch, họ phải hạ nòng đại bác để bắn trực xạ thẳng vào thiết-xa PT-76 địch bên kia đồi và trong những loạt đạn đầu tiên đã hạ ngay được 2 chiếc PT-76. Nhưng để trả giá cho hành động dũng- cảm này nhiều binh sĩ Dù đã nằm xuống, có người nằm chết vắt trên những khẩu pháo của họ, trong số này có cả pháo đội trưởng Nguyễn văn Ðương, người đã là niềm hứng khởi cho một nhạc phẩm nổi tiếng sau đó. Anh em Dù vui sướng reo mừng trong hầm bên này; Không ngờ, chỉ mỗt lúc sau 2 thiết-xa PT-76 khác ở phía sau tiến tới ủi những chiếc xe cháy xuống triền đồi rồi lại hướng súng đại bác về đồi 31 mà bắn! Còn những chiếc T-54 không leo lên được thì sũa bậy bạ lên phía trên đồi đễ hù dọa các thiên thần mũ đõ. Sau vài loạt đạn, một phi tuần 2 chiếc F4 Phantom xuất hiện nhào xuống oanh tạc vào đội hình Trung Ðoàn 24B, và lại phá hủy thêm 2 PT-76 nữa. Nhưng chẳng may một chiếc F-4 bị trúng phòng không 37ly xì khói, phi công đang nhảy dù, thế là tất cả phi cơ Mỹ đều bỏ lại và dồn nổ lực vào rescue chiếc F-4, người quan sát viên Việt ngồi ghế sau thuộc Phi-đoàn 110 cũa FAC Bronco OV-10 đành thở ra lắt đầu ngao- ngán.
Trong tiếng bom đạn tơi bời, dân bay mừng rở vẫn nghe văng vẳng tiếng máy nổ của những chiếc H34 thương yêu đang vần vũ trên cao cùng chiếc UH-1 C&C cũa con chim đầu đàn nguyện không bõ anh em không bỏ bạn bè, đang vang vọng trên đó như lo lắng cho số phận những đồng đội của mình. Cho đến khoảng 5 giờ chiều thì quân BV tràn lên chiếm được đồi Chúng lùng xục từng hầm trú ẩn kêu gọi binh sĩ Dù ra đầu hang; Biết không thể làm gì hơn, 2 PHÐ tháo bỏ súng đạn cá nhân, chui ra khỏi hầm.và chịu cãnh hàng binh; Về phía KQ, Bửu, Khánh, On và Sơn bị trói bằng dây điện thoại và ngay tức khắc bị dẫn giải ra bắc băng đường 92B chung với tất cả tù binh khác, vì sợ B-52 trãi thãm. Không thấy Giang và Em đâu, anh em KQ tim hõi nhau, họ bắt đầu thăm hỏi các SQ và binh sĩ Dù trên đường bị áp tãi. Cuối cùng họ gặp được anh Long là người ở chung trong hầm với anh Giang khi cộng quân kêu các anh ra đầu hàng. Ðến lần thứ 3 các anh vẫn không chịu ra nên chúng thảy lựu đạn chày và bắn xối xả vào hầm; Anh Long chỉ bị thương nhẹ nên chúng bắt theo còn anh Giang vì bị thương nặng gãy cả 2 chân không đi được nên bị chúng bỏ lại và chết ở trong hầm. Về phần cơ-phi Em thì bị lạc đạn trúng bụng đổ ruột ra ngoài, khi bị bắt dẫn đi anh Em cứ 2 tay ôm bụng giữ lấy ruột mà không hề được băng bó vết thương nên đi được một khoảng không chịu được đau đớn anh Em gục chết ở bên đường.
 
      Thế là Phi-Ðoàn-219 ghi thêm vào quân sử của LÐ/51/TC thêm một thiệt hại 2 phi hành đoàn trên chiến trường Hạ Lào, trong đó anh Giang và Em đã vĩnh viễn ở lại trên trái đồi oan-nghiệt nầy, Ngọn đồi quyết tử 31; Những người còn lại của 2 phi hành đoàn đó là Bửu, Khánh, On và Sơn thì sa vào tay địch, bị đưa đến những bến bờ vô định, biết còn có ngày về hay không?
     
Trương Văn Vinh